Vùng mắt bão
Nguyễn Đình Vinh và Thương Huyền
Chương XI
Tiếng cười nói rộn ràng khắp con ngõ nhỏ. Trên khoảnh sân rộng của căn nhà khiêm nhường giữa thôn Bùi Thượng xã Lê Lợi, mọi người đang cười nói ồn ào. Ngoài cổng, tiếng hai người đàn ông liến thoắng:
– Đi dự cưới mà phong phanh thế này sao?
– Hì hì, bạn bè, đồng đội với nhau, cởi trần đến dự cưới càng vui. Tay Lân thế mà son, cưa cẩm thế nào đổ ngay cô Khứu con gái rượu cụ Coi thế không biết. Da trắng, tóc dài… Rõ là… Tay đấy tốt số thật!
– Ơ, tôi tưởng tay Lân cưới cô Chắt con chứ, lại cưới cô Khứu nào thế? Tay này bắt cá hai tay à? Thế thì tớ đếch vào dự cưới nữa… Cô Chắt con cũng uỷ viên ban chấp hành phụ nữ liên xã đấy, đừng đùa!
– Bố cu chả biết gì. Chắt con là tên gọi ở nhà. Giờ người ta đi công tác rồi, ai còn gọi Chắt con Chắt to mãi. Tên thật cô ấy là Khứu… Nghe chửa… Rõ là biết một mà chả biết hai.
– Hơ hơ, thế à? Thế thì vào thôi. Ăn cỗ đi trước…
Họ dắt tay nhau vào. Anh em bạn bè quây quần rất đông. Hôm nay Chắt con (mà thôi, không gọi cô bằng cái tên cua ốc ở nhà ấy nữa) tức cô Khứu đang sánh vai cùng đức lang quân của mình, chàng Lân – Trưởng ban thông tin tuyên truyền liên xã. Đã hết những ngày họ chỉ dám nhìn nhau mà không dám hé một lời về sợi tơ hồng đang len lỏi trong tim. Giờ đũa đã có đôi. Từ hôm nay, Lân thực sự có Khứu bên mình.
Lân dắt tay Khứu bước ra từ căn nhà đơn sơ nhưng ấm áp tình người của ông bà Đinh Văn Xuyền và Phạm Thị Quy. Ông bà là cơ sở cách mạng nhưng lại thương Lân Khứu như con ruột của mình. Họ nhìn nhau, mắt ngời hạnh phúc.
Thu chiều. Luồng heo may bất chợt ùa về, nhẹ nhàng lách qua đầu tường ngôi nhà nhỏ mang theo đám lá bồ kết li ti vàng như những chấm kim rắc lên đầu mọi người đang ngồi trên sân. Lân, Khứu thấy mình đang bay lên, lơ lửng, như cánh diều vẫn chao lượn trên lưng chừng trời mỗi chiều no gió. Họ không vui sao được khi trong ngày hạnh phúc nhất của đời mình, bên họ không chỉ có người thân trong gia tộc, còn có mặt đồng chí, đồng đội, những người ngày đêm sát cánh bám trụ giữ đất quê hương. Mắt Lân lướt nhanh. Gương mặt từng đồng đội in hình. Đây nhé, đây là người anh, người lãnh đạo cấp cao Lê Gia Hỷ – Huyện uỷ viên Huyện uỷ Gia Lộc. Đây là anh Đặng Duy Nhiếp, Bí thư Chi bộ Nghĩa Hưng… và đây, đây nữa… các anh, các chị đang ngắm nghía niềm hạnh phúc của hai người. Mắt họ cười. Giọng họ như reo. Họ trêu chọc, đùa cợt hai người nhưng lại đang chia sẻ hạnh phúc lớn nhất đời của bạn bè mình. Anh nắm tay người bạn gái mà giờ đây là người vợ yêu quý của mình, nhìn mọi người, ánh nhìn chan chứa.
– Này, đằng ấy ơi! Hôm nay nhìn họ mà thèm. Đằng ấy ưng bụng để tớ đem… đến nhà! Giọng nam trầm cất lên điệu hát đối ngọt lịm phía cuối sân, góc cái giếng nhỏ. Lời hát lửng lơ, cứ như đang ghẹo ai đó, lại như chẳng nhắm vào người nào… “ Đầu năm ăn quả thanh yên/ Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng/ Vì cam cho quýt đèo bòng/ Vì em nhan sắc, cho lòng anh thương”.
– Đem gì đến nhà? Giọng nữ cao vút cất lên. “Gió vàng hiu hắt đêm thanh/ Đàng xa, dặm vắng, xin anh đừng về/ Mảnh trăng đã chót lời thề/ Làm chi để gánh nặng nề riêng ai”.
– Khéo đối quá. Ngọt ngào quá! Tiếng xuýt xoa, trầm trồ vang lên. Giọng nữ như mía lùi: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh/ Bao giờ cho đến tháng hai/ Con gái làm cỏ, con trai be bờ”… vẫn da diết thì bên nam, giọng hát tinh nghịch cướp lời: “Lấy chồng chẳng biết mặt chồng/ Đêm nằm mơ tưởng nghĩ ông láng giềng”… chẳng hề ăn nhập. Mọi người cười ồ… Tiếng nhí nhéo chọc ghẹo nhau kéo thành một bè trầm, ấm áp.
– Thôi nào! Giọng anh Bạ oang oang – Đề nghị mọi người trật tự để ông Nhiếp còn làm chủ hôn chứ! Cứ trêu chọc nhau mãi thế, chệch giờ lành tháng tốt của người ta bây giờ!
– Thôi, ông Bạ làm chủ hôn luôn thể đi. Ông như hộ pháp thế kia, mụ nhà ông lại mắn như nái ỉ, mát tay phải biết, cô cậu Lân Khứu cứ gọi là sòn sòn sòn đô sòn… Ai đó lên tiếng đùa.
– Khỉ gió nhà lão này! Anh Bạ giờ nắm đấm dứ dứ vào chỗ người vừa nói. Tiếng cười rộ lên.
– Thưa quan viên hai họ, thưa bà con, cô bác và các đồng chí! Anh Nhiếp – Bí thư Chi bộ Nghĩa Hưng trịnh trọng.
Khứu ngồi bên Lân. Đầu cô hơi cúi, má đỏ lơ đỏ lửng. Bên cạnh cô, Lân ngượng nghịu đan hai tay vào nhau. Mắt họ thoáng trao, cô thấy anh mủm mỉm cười. Thường ngày, anh Nhiếp cũng rất hay tếu. Công việc dù khó khăn thế nào cũng không làm người bí thư chi bộ ấy gắt gỏng. Vậy mà, giờ đây, anh đang trịnh trọng tuyên bố giây phút trọng đại trong cuộc đời hai người đồng chí của anh. Tiếng anh Nhiếp vẫn trầm ấm: “Sau những ngày tìm hiểu, đồng cam cộng khổ tham gia vào cuộc kháng chiến giữ đất quê hương, đôi bạn trẻ Lân, Khứu đã tìm được nhau. Họ như con thuyền tìm được về bến đỗ….” Quái, cái ông Nhiếp hôm nay văn hoa đến lạ… Lân thoáng nghĩ. Lời tuyên bố của anh Nhiếp chập chờn giữa đôi bờ hư thực của cuộc đời. Cuộc sống nhiều khi đến lạ. Giặc giã, tan hoang, giết chóc… Bọn địch định biến quê hương Lân thành miền đất chết, chỉ còn cỏ dại, chuột hoang, nhưng chúng đã lầm. Trong gian khổ, hạnh phúc vẫn hiện sinh. Đám cưới của anh và người con gái anh yêu đang ngồi bên là bằng chứng cho sự sinh sôi ấy. Và không chỉ hạnh phúc của anh hôm nay, còn, sẽ còn rất nhiều đám cưới của bao anh em khác nữa. Rồi thế hệ mới sẽ ra đời, chúng sẽ tiếp bước thế hệ cha anh gánh vác cuộc kháng chiến hôm nay, sẽ tiếp tục khiến cho quân cướp nước bạt vía, kinh hồn. Lân như trôi trong dòng sông hạnh phúc. Mơ ước bao ngày được cùng người mình yêu xây dưng một gia đình nhỏ, nơi có tiếng khóc, câu cười của những đứa con yêu, nơi ngày ngày anh trở về sau bao cơn ấm lạnh của đời. Cuộc sống sẽ còn những khó khăn mà vợ chồng anh phải vượt qua. Không khó khăn sao đươc khi ngay lúc này đây vẫn thấp thoáng phía bên kia tiếng giày đinh của quân kẻ cướp.
– “Tôi xin phép hai họ được tuyên bố, kể từ giờ phút này, hai đồng chí Nguyễn Đình Lân và Nguyễn Thị Khứu chính thức trở thành chồng vợ của nhau. Các đồng chí luôn phải nhớ “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, phải giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, góp sức mình vào cuộc giải phóng dân tộc của cả nước… Sau đây, tôi xin có nhời mời đại diện hai họ lên có đôi nhời với cô dâu, chú rể…”. Có bóng người thấp thoáng ngoài ngõ. Anh Bạ chạy ra. Không biết có chuyện gì, Lân chợt thấp thỏm. Anh Nhiếp bước tới cạnh Lân, nói nhỏ. Thoáng thấy Lân sững sờ. Trong sân, những ánh mắt nhìn nhau, lo lắng.
Chưa kịp phản ứng gì, tiếng súng cối nổ như xé màng nhĩ bên làng Chuối. Rồi cả bố phía, tiếng súng thi nhau điên cuồng nhả đạn. Cả làng Chuối, làng Anh, rồi Bượi Răm cũng thấy súng nổ như mưa rào. Đạn bay như tên bắn, rơi chí chát xuống làng Bùi Hạ.
– Tây càn. Chúng nó vào đến làng Chuối, làng Anh rồi…
Ai đó hét to. Đám cưới bỗng chốc nháo nhác. Chẳng phải họ sợ quân xâm lược, cũng không phải ngại súng đạn, chỉ vì họ quá bất ngờ trước những gì đang diễn ra. Mới này hôm qua thôi, chưa có tin tức gì về việc địch sẽ càn vào các làng quanh Bùi Hạ.
– Sơ tán mau. Đừng chạy đi đâu cả. Cả Chuối, Anh, Bượi Răm đều có lính rồi – Tiếng anh Hỷ rành rọt- Nó không dám nống sang đây đâu. Không phải chạy đi đâu cả. Chỉ cần tránh đạn chúng nó bắn sang thôi. Mọi người cứ mang tất cả các thứ ra ngoài đồng, chúng ta tiếp tục. Nó chỉ bắn vào làng thôi, không dám sang đâu…
– Thật rồi! Kệ mẹ nó. Ngày nào chúng nó chả đùng đoàng. Mang tất ra ruộng. Ta ra đó tổ chức cưới tiếp – ông Tuyển vung tay rồi khệ nệ ôm chồng bánh chưng đi trước. Mỗi người một thứ, nồi niêu, bát đĩa khênh cả ra ruộng.
Lúa mùa đang vào hạt. Đó đây thửa trỗ bông sớm bắt đầu đỏ đuôi. Cả đám cưới nấp dưới những ruộng lúa cao ngang đầu người, thấp thô trong hương thu dịu nhẹ. Mùi xôi nếp, bánh chưng, cỗ cưới hoà vào mùi rơm rạ của lúa chuẩn bị vào vụ gặt thành một thứ hương vị no ấm. Hương vị ấy cứ lan toả, át cả mùi thuốc súng đang dần ngập ngụa không gian. Mọi người có mặt dường như không quan tâm tới mùi thuốc súng đầy chết chóc. Trước mắt họ, chỉ có hạnh phúc của cuộc sống đang hiện hình. Nhìn đôi bạn trẻ Lân Khứu tay trong tay hạnh phúc, mọi người như vui lây. Miếng bánh chưng mừng đám cưới của hai người không còn đơn giản chỉ là món quà, là miếng ăn trong mâm cỗ cưới mà trở thành miếng nhớ, miếng thương khi hoà quyện trong đó cả tình đất, tình đời và tình người nơi miền quê Gia Lộc giữa những ngày bom đạn. Món quà cưới bè bạn tặng họ hôm nay không to tát về vật chất nhưng lại thành dấu ấn, thành chứng nhân hạnh phúc giữa những ngày gian khó. Mùa thu năm năm mươi thành ngày không thể quên trong cuộc đời Lân Khứu. Và đám cưới hai người cũng trở thành đám cưới độc nhất vô nhị trong những ngày chống Pháp gian khổ này.
Trên bờ thửa xung quanh, cỏ lại xanh trở lại. Hôm nay, cỏ như xanh hơn. Đó đây trên hai bờ đất, chi chít những bông hoa dại. Bông vàng, bông trắng, bông lại tím như mơ. Có những bông nhỏ li ti, cánh vàng óng, tươi mởn luôn vươn về phía mặt trời. Trong ruộng, những bông lúa uốn câu nhú màu xanh pha vàng giữa sắc xanh của lá. Chẳng ai có thể gọi hết tên tất cả những loài hoa dại ấy trên bạt ngàn đồng đất quê mình cũng như người ta không thể vạch hết những đường đi, lối lại cho niềm vui, hạnh phúc.
**
*
Đêm! Những bóng người lầm lũi từ phía làng Bùi Hạ vượt đồng về lại làng Bung. Mãi khi về tới đầu làng, người ta mới nhận ra đó là đoàn người đi dự đám cưới Lân – Khứu về lại làng. Họ đi, âm thầm, nhẫn nại. Ngày hôm nay, họ đã vượt lên cái khốc liệt giữa cuộc vây ráp, càn quét để vun đắp cho một cuộc sống mới. Bà giáo Thuận đi giữa đoàn người. Gánh nặng cuộc sống bao ngày bà gồng gánh nay đã có người ghé vai xốc đỡ. Bà vui. Niềm vui của người mẹ thấy con cái mình trưởng thành. Cậu trưởng Lân của mẹ giờ không chỉ là một trưởng ban địch vận xông xáo, một phó xã đội được anh em mến phục mà còn là một người đàn ông trưởng thành thực sự. Nó đã có vợ. Nó đã lớn thật rồi. Công lao bà sinh dưỡng vun trồng Lân từ lúc cây non với cảnh một bàn tay đầy, hai bàn tay vơi giờ đã đến mùa trổ quả. Bà bước đi, nhìn trời. Bà biết, ông giáo vẫn dõi mắt theo từng bước đi của mẹ con bà và đêm nay, chắc ông giáo cũng đang rất khấp khởi.
Bóng cái chòi canh cao ngất nghểu trên đầu bốt Giỗ vẫn phập phù bóng điện như mắt ma. Thi thoảng, một bóng pháo sáng vọt lên, ánh sáng xanh lét như ánh lân tinh phụt lên từ những ngôi mộ mới chôn người chết. Tất cả những gì phát ra từ cái Giỗ khốn kiếp kia đều tanh lợm, ghê người thì phải.
Bước qua cây cầu đá xanh ngang con ngõ nhỏ, bàn chân Khứu bỗng ngập ngừng. Ngôi nhà nhỏ nơi anh đã lớn lên giờ đây sẽ trở thành tổ ấm của cô. Người đàn bà tảo tần đang bước những bước điềm đạm, dẫn cô vào cổng kia là mẹ của cô. Ngập ngừng, chộn rộn, thêm một chút lo lắng. Nhưng cô sẽ sống xứng đáng với những gì mà cô và anh đã vượt qua để đến được hạnh phúc này, để xứng đáng với những gì mà rất nhiều người dân đã phải trải qua. Dù ngọt ngào, dù cay đắng, nhưng cô biết mình còn may mắn hơn rất nhiều những người dân làng Chuối, làng Anh hôm nay. Họ đã chết, chết một cách oan uổng bởi họng súng quân thù. Họ đã chết mà không hiểu vì sao mình phải chết.
Không thể dựng nhà to, bà giáo cùng mấy anh em Lân làm tạm hai gian nhà gianh nhỏ. Bà ngăn đôi căn nhà tạo dựng một gian buồng cho vợ chồng Lân. Không có giường, tự tay Lân đã tìm những viên gạch vương vãi khắp nơi, lấy bùn xây thành hai chiếc giường nhỏ trong căn nhà của gia đình. Chiếc giường tân hôn của vợ chồng anh cũng được xây như thế. Trên tấm phản gạch xây bùn ấy, anh đã khéo léo trải một cái ổ rơm. Một chiếc chiếu cũ được trải lên trên, chiếc giường hạnh phúc của vợ chống anh đã được thu xếp như thế.
Ngọn đèn hạt đỗ duy nhất đã tắt. Căn buồng bỗng trở nên thâm u. Tiếng muỗi vo ve lượn như đèn cù. Lân quay mặt vào. Tiếng Khứu thì thầm rất nhỏ:
– Làng Chuối, làng Anh hôm nay dân chết nhiều quá, mình ạ!
– ừ, lúc về ngang qua đấy, làng xóm xơ xác hết. Dân làng Chuối bị giết nhiều hơn. nghe đâu mất đến hơn năm chục mạng người. Chúng nó tàn ác quá. Không kể già, trẻ, đàn ông, đàn bà… Anh Tỳ vừa nói lại, ngày hôm nay rồi thành ngày giỗ trận hai làng này thôi…
– Sao bỗng dưng nó lại càn vào đấy thế mình?
– Chả bỗng dưng đâu. Chắc chỉ nay mai, khi họp chi bộ, mình sẽ biết đích xác thôi. Chiều nay, lúc ngồi bên cạnh anh Nhiếp, bí thư chi bộ nghe liên lạc báo cáo với anh Lê Gia Hỷ, anh đã nghe được rồi. Thôi, ngủ đi, mai còn một đống việc phải làm đấy.
Lân không sao chợp mắt nổi. Tiếng muỗi vẫn i ỉ, vo ve như một bản độc tấu vụng về, buồn thảm. Mùi máu tanh lợm khi đi qua làng Chuối ám ảnh anh. Hình ảnh nhữn người đàn bà bị giặc hiếp đến phát rồ, phát dại không mảnh vải che thân thoắt khóc, thoắt cười chạy dọc đường là tìm con, gọi chồng cứ quanh quẩn hiện về. Cuộc sống là đấu tranh. Nhưng để giành được thắng lợi, người dân vùng này đã phải trả những cái giá quá đắt. Anh không muốn nói ngay với Khứu. Anh không muốn để cô bị ám ảnh bởi những gì chết chóc trong những ngày đầu họ sống cùng dưới một mái nhà. Nhưng hễ nhắm mắt lại, tiếng kêu khóc như chim ri vỡ tổ, tiếng tre nứa trên các mái nhà bị đốt nổ lốp đốp, mùi khói khét lẹt lẫn trong mùi máu quẩn trong quầng lửa rừng rực cháy lại loà loà trước mắt Lân. Thù này nhất định phải trả. Căn nguyên của trận càn này nhất định phải tìm ra. Và sự hy sinh của người dân làng Chuối, làng Anh hôm nay nhất định anh phải nhắc đến trong các cuộc địch vận, tuyên truyền để nhân dân nhận rõ tội ác của giặc. Và cả những người Việt nam đang cầm súng trong hàng ngũ quân địch nữa. Họ vì miếng cơm, manh áo, vì bị ép buộc mà phải sung vào đội quân đánh thuê kia, nhưng nhất định, anh phải vận động họ nhìn thấy bộ mặt khát máu của quân xâm lược mà đứng về hàng ngũ của mình.
**
*
Cuộc họp chi bộ Nghĩa Hưng bắt đầu. Không khi nào, họp chi bộ lại có không khí trầm lắng như hôm nay. Giọng anh Nhiếp như nghẹn lại.
– Chỉ trongmột trận càn, chúng đã bắt giết hơn năm chục người dân làng Chuối, gần hai chục người dân làng Anh, phá tan hoang nhà cửa, làng mạc…
– Trên có thông tin gì về trân càn của chúng không anh? Anh Tuyển ngước lên. Cái vẻ tếu táo của một du kích bán thoát ly gan góc thường ngày biến mất. Nét mặt anh chùng xuống
– Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có một nguyên nhân lớn nhất là trên đường đi càn tại các xã quanh Nghĩa Hưng, chúng có bắt được bốn người tự khai là bộ đội Tây Sơn của ta. Sau khi tra tấn giã man, một trong bốn người này không chịu nổi đã khai là tại làng Chuối đang có chứa một đại đội Tây Sơn và cất giấu vũ khí…
– Mẹ cái thằng khốn kiếp nào thế không biết… Ông Tỳ đứng phắt dậy – Nó ăn gì mà liếm gót quân Pháp đến vậy… Tổ sư nhà nó. Thế mà cũng mạo danh là bộ đội Tây Sơn. Bộ đội Tây Sơn làm gì có cái giống hèn hạ thế. Chắc là nó giả danh thôi… Mình phải cho người đột nhập vào, lôi cổ nó ra mà bêu ra đầu phố Giỗ kia kìa, cho những thằng hèn nhát khác sáng mắt ra…
– Thì từ từ nghe xem bí thư nói rõ ràng xem nào… Đề nghị đồng chí Nhiếp nói cụ thể hơn cho chúng tôi nắm được tình hình – Lân kéo áo Tỳ, lên tiếng… – Chúng tôi cũng đã nghe bà con bàn tán nhiều về trận càn này, bản thân chúng tôi cũng đã qua bên Chuối, Anh nắm tình hình… Thật, giả kể cũng khó xác định, không cẩn thận mình lại mắc mưu chia rẽ của chúng nó.
– Tất nhiên, tên tuổi của kẻ phản bội sẽ được cấp trên tìm hiểu thật rõ. Mà nói thật, những thằng phản bội cũng chẳng mấy khi bọn địch sử dụng lâu đâu. Hết tác dụng là nó bọp – Ông Tuyển lúc lắc mái đầu, tay vung lên.
– Chó nó bọp tan thây lũ chó chết ấy đi. Anh em, đồng đội mình nó còn bán thì bọn kia nó tha gì… Tỳ hùng hồn – Thế mới biết, có được những người như anh Thịnh, anh Thoại dám chết một cách ngoan cường như thế thật đáng mặt anh hùng.
-Anh Thoại, anh Thịnh nhà mình thì miễn bàn, chỉ thương một nỗi, không biết nó vứt xác các anh ấy ở đâu…
– Thôi, ta tâp trung vào việc đi – Đồng chí Nhiếp gõ gõ tay xuống mặt bàn – Theo thông tin mật, địch tổ chức trận càn vào làng Anh, làng Chuối và các làng xung quanh không phải ngẫu nhiên như những trận càn khác. Điều này, một số đồng chí trong chi bộ nhất là đồng chí Lân cũng đã nắm bắt được và tôi cũng đã vừa nói qua. Việc tên chỉ điểm, phản bội có phải chính danh là bộ đội Tây Sơn hay không, chúng ta cần có sự xác minh thật chính xác. Nhưng phải khẳng định một điều, chính từ sự khai báo của kẻ phản bội ấy, địch mới tập trung quân, mở một cuộc càn quét với quy mô lớn bao vây làng Chuối lại, rồi lan sang làng Anh. Từ việc vây ráp này, chúng đã bắt được các cán bộ xã đội đang họp, cùng với vũ khí giấu dưới ao bèo tây ở góc làng. Từ đó, chắc các đồng chí hiểu, những thông tin mà kẻ phản bội cung cấp cho địch là hoàn toàn chính xác. Điều này thể hiện sự sơ hở trong công tác của ta. Đây cũng là bài học cho chúng ta trong công tác…
– Chết, chết. Giờ lại còn phải đề phòng cả người bên cạnh mình thì chết chứ sống làm sao – ông Tuyển chắc lưỡi…
– Không hẳn vậy. Anh em chúng ta ai thế nào cả quãng đường gian khổ vừa đi qua, chúng ta đã hiểu. Tôi tin, trong hàng ngũ chúng ta không có kẻ hèn nhát ấy. Tôi chỉ muốn nhắc các đồng chí, trong quan hệ công tác, không phải chuyện gì, thông tin gì chúng ta cũng có thể nói hết, nói ngọn ngành. Điều này, các đồng chí thông tin, tuyên truyền, địch vận rõ hơn ai hết. Bây giờ, đồng chí Lân sẽ thay mặt chi bộ, thông tin thêm tới các đồng chí về trận càn này…
– Thưa các đồng chí. Trận càn của địch vào làng Chuối không chỉ gây tổn thất nặng nề cho nhân dân. hầu như gia đình nào cũng có người bị chúng giết, có nhà bị chúng giết chết hết không còn một người. Xã đội đang họp tại lang Chuối cũng tổn thất khá nặng. Đồng chí Nguyễn Đức Sáng – xã đội trưởng bị chúng bắt, do kiên quyết không chịu khai báo nên bị chúng kê đầu vào máng lợn, cắt tiết. Chúng dồn dân ra ngoài đình, sắp hàng dọc rồi xả súng bắn chết một xâu mười ba người… Nhiều bà, nhiều chị bị chúng hãm hiếp tới mức phát điên. ..
– Bên làng Chuối không tổ chức vòng cản cho chị em à? Ông Tỳ cắt ngang. Làng mình các bà, các mẹ vẫn tổ chức vòng cản khá tốt cơ mà…
– Vòng cản của các bà, các cụ không ăn thua gì khi quân giặc đã trở nên điên cuồng. Một tiểu đội lính Âu Phi lôi chị Diệc từ giữa vòng cản của các cụ ra. Trên tay chị Diệc vẫn ôm đứa con vừa mới sinh được ba tháng. Thằng lính Âu Phi thét lên: “Tí nhau đi mượn” rồi nó giằng đứa bé ra khỏi tay chị, tung lên trên đầu đám dân đang ngồi. May mà một bà đỡ được đứa bé. Chúng lôi chị Diệc ra ngoài. Khi thấy chị ôm chặt lưng quần, một thằng đã xé toạc ống quần của chị từ dưới lên, rồi ngần ấy thằng trong tiểu đội thay nhau hãm hiếp chị. Ngay cả lúc chị Diệc đã ngất đi rồi chúng cũng không tha, vẫn tiếp tục hiếp khiến chị phát điên, cứ tung đứa con lên cao rồi ngửa cổ cười sằng sặc. Rất nhiều người dân bị cắt tiết, chặt đầu. Từ đầu làng đến cuối làng, máu me lênh láng. Nhiều chỗ máu đọng lại ngập bàn chân…
– Tổ sư cha quân ác ôn! Một người đứng lên
– Ban địch vận chúng tôi sẽ có kế hoạch vận động tuyên truyền cụ thể với những nguỵ quân đang cầm súng đánh thuê cho Pháp tại căng Phương Điếm. Họ cầm súng đánh thuê cho chúng khi ở nhà cha mẹ, vợ con họ bị chính đội quân ấy làm hại… Lân thông qua chi bộ kế hoạch địch vận sắp tới của ban anh. Nhất định, từ sự kiện này, anh phải gây dựng thêm được nhiều nhân mối trong lòng địch. Nếu các anh không làm được việc đó, cái chết của những người dân làng Chuối, làng Anh trong trận càn của Pháp vừa qua chẳng phải vô ích lắm sao?
**
*
Cuối tháng hai! Đã bước sang năm năm mốt được mấy tháng. Trời vẫn rét như cắt ruột. Gió bấc thổi ồ ồ, gay gắt, lùa vào buốt tận xương. Tờ mờ tối, mọi nhà đã đóng cửa im ỉm. Làng Đức Đại khi thì chìm nghỉm giữa những tiếng réo của gió, lúc lại chơi vơi như đang nằm giữa một khoảng trống giữa đồng. Không có một bóng người ngoài đường, không tiếng người, không đèn đuốc. Chỉ thi thoảng thấy le lói ánh sáng như hạt đỗ lọt ra từ những tấm liếp cửa hé vội. Lân gập người bước cùng mấy anh em trong Ban địch vận và du kích xã nhẹ nhàng lẩn vào bóng đêm hướng về bốt Giỗ. Chưa thể làm gì được nó lúc này, nhưng cũng thể để nó sống yên, du kích xã quyết định đột kích, phá hàng rào phía bên ngoài bốt. Một khoảng trời đen thẫm, lác đác vài ngôi sao thưa thớt luôn luôn ngự trị trên đầu họ. Những ngôi sao không đủ sáng để soi đường nhưng cũng đủ để những người trong tốp du kích đi cùng Lân không đi lệch hướng. Gió thổi mỗi lúc một thêm mạnh, bộ quần gụ mỏng manh họ đang mặc dán vào người. Cái áo anh Tuyển đang mặc bị bục chỉ ở bên sườn, gió cứ thế thốc vào, chạy dọc người khiến có lúc người anh rung lên bần bật. Đêm đã khuya, cơn rét ban ngày vừa dịu đi chút ít giờ trở lại gay gắt. Gió vẫn từ phương Bắc thổi về, lồng lộn trên cả một khoảng rộng mênh mông.
Mặc trời tối, mặc rét buốt, đường ngõ lại chằng chịt những lối ngang lối dọc, tốp du kích vẫn bước. Lân xăm xăm đi đầu. Vóc dáng anh vốn thấp đậm, lại hơi cúi để tránh gió bấc nên nhìn càng như thấp đi. Nhân mối trong bốt anh đã gặp lại lúc chiều. Không thể bỏ lỡ cơ hội này. Gió bấc vẫn gào thét. Ba bề bốn bên chỉ có gió và gió. Mặc!
Bốt Giỗ đã hiện ra trước mắt. Trước khi vào bốt chính với hàng rào kẽm gai, quân Pháp đã bắt dân phu các làng quanh vùng chặt tre rào thành một hàng rào mắt cáo ken dày ở vòng ngoài. Ba tiếng cú rúc. Một tiếng cú đáp lại. Nhân mối của Lân trong bốt đã nhận ra ám hiệu. Lân căng mắt nhìn ra tứ phía. Tầm mắt anh mất hút trong bóng đêm dày đặc. Chắc chắn các anh đang nằm giữa những đám cỏ hoang cao quá tầm tay với mọc um tùm quanh bốt. Tay các anh đã chạm vào hàng rào tre phía ngoài. Đêm càng tối, cái bốt Giỗ càng nổi khối đen thẫm lù lù chạm vào nền trời đêm. Đã ngửi thấy cả mùi han rỉ của dây kẽm gai quân Pháp rào quanh bốt. Quanh lân và đồng đội của anh là cả một khoảng trống. Im lặng. Không một tiếng động nào ngoài tiếng gió rít trong các lùm cây cao vượt lên khỏi tháp canh của bốt và luồng gió rượt đuổi nhau chạy dài khắp các búi cỏ hoang. Không được sơ suất. Chỉ cần một sai sót nhỏ lúc này, những quả mìn quân địch gài dưới chân hàng tre phát nổ là hỏng hết mọi chuyện. Những khẩu đại liên, trung liên quân địch đặt trên các tháp canh sẽ tha hồ nhả đạn. Rồi súng to, súng nhỏ trong đồn sẽ phun ra như mưa. Tiếng cú rúc nhịp một của người nhân mối trong bốt báo cho Lân biết người ấy đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Vậy là một khoảng trong hàng rào tre đã được tháo sẵn. Những quả mìn quân địch cài đã bị gỡ kíp nổ. Lân ghé tai ông Tuyển. Những búi bùi nhùi rơm cuộn giẻ bên trong được các anh rải xuống chân hàng rào. Tre làm hàng rào lâu ngày đã khô quắt lại, cộng với gió bấc gào giữa trời hanh heo mấy hôm nay. Đặt bùi nhùi xong, ông Tuyển vẫy tay về phía sau. Bốn anh du kích xã lùi xuống, bò dần ra ngoài. Chỉ còn Lân và Tuyển. Lân ghé miệng thổi vào mớ bùi nhùi trước mặt. Làn khói phơ phất bay lên. Họ vơ cỏ khô phủ lên trên. Ngửi thấy mùi cỏ đã bén lửa, ông Tuyển nháy Lân. Họ trườn theo vệt cỏ khô theo chân con hào nhỏ bọn địch đào quanh bốt, ra chỗ hẹn bên đống mả Chằm.
Ngọn lửa bùng cao. Tre khô bắt lửa cuộn với cỏ hoang khô cháy rừng rực. ánh lửa cháy hàng rào bốt Giỗ bị gió bấc cuộn giữa tiết trời hanh khô càng hanh hao, uốn éo run bần bật. Lửa cháy soi sáng cả một góc trời.
– Bốt Giỗ cháy rồi. Du kích đốt bốt Giỗ rồi, bà con ơi!
Dân Đức Đại, Phương Điếm nổi mõ, tù và, thanh la ầm ĩ. Những nhà ở gần ngay bên bốt vừa ngửa cổ nhìn ngọn lửa bốc cao, vừa chuẩn bị tránh đại bác địch bắn trả thù. Họ hỉ hả nhìn ngọn lửa, lòng thầm mong cho nó không bao giờ tắt.
**
*
Con gà eo óc gáy cầm canh. Đã gần sáng. Bọn lính bên bốt Giỗ và Camp Phương Điếm phải một đêm mất ngủ. Dù chỉ bị cháy hàng rào tre bên ngoài cũng khiến chúng không yên ổn. Vậy là cái hệ thống lô cốt chúng vẫn rêu rao “bất khả xâm phạm” chẳng an toàn như chúng vẫn nghĩ. Đêm qua, du kích đốt hàng rào tre bên ngoài, ai dám chắc một lúc nào đó, du kích không nhổ phắt cái bốt sừng sững án ngữ kia. Tin từ khắp nơi đã chẳng dồn về mấy ngày nay, lại cả những tên lính bại trận chạy trối chết từ các bốt ở Thanh hà, Tứ Kỳ, Thanh Miện về Phương Điếm nữa. Chỉ đốt cháy được hàng rào tre, nhưng du kích Nghĩa Hưng đã vả một tát mạnh vào mặt tên đội Gầy cùng đám thuộc hạ lâu nay vẫn nghênh ngang trong bốt Giỗ.
Lân chuồi vào cửa nhà. Bà giáo mẹ anh không bao giờ chốt cửa. Bà biết, con trai bà vẫn đi về thất thường trong đêm. Công việc của anh, bà giáo chẳng lạ gì. Chỉ thương con lăn lóc, vất vả:
– Anh cả về đấy hử? Tiếng bà giáo vọng ra – Có rổ khoai chị ấy luộc chập tối đấy, mang một ít xuống hầemm mà ăn, rồi tranh thủ ngủ đi một tí… Khổ!
Tiếng chắc lưỡi xót xa của mẹ khiến Lân bật cười.
– U ơi! Có riêng mình con đâu. Bao anh em khác cũng thế cả đấy chứ…
– ừ, thì cả đám chúng mày đều thế chứ riêng gì đứa nào… ăn bờ, ngủ bụi… Chỉ lúc nào hết đám mắt xanh mũi lõ kia cút hết thì dân tình mới hết khổ… Thôi, anh cả ăn đi rồi chợp mắt lấy một tí. Chị ấy đi chợ sớm rồi…
– Nhà con đi lâu chưa u?
– Từ lúc gà gáy canh tư. Hôm nay, nó nhảo chợ Bóng. Mà anh chị công tác gì thì cũng phải sơm sớm có con đi. Cứ đẻ một vài đứa, vứt ở nhà cho tôi rồi đi tác te thế nào cũng được. Việc chung giỏi mà việc tư không hay thì cũng chả ra gì được đâu.
– Hì hì! Được rồi. U yên trí, chỉ sợ rồi u lại kêu sụn lưng vì bế cháu thôi. Mà u này, có khi chuẩn bị chống càn đi là vừa đấy. Chốc nữa, thế nào bọn bên bốt Giỗ cũng càn sang đây. Nhà mình ngay cạnh đình cũ thế này, nó không tha đâu. U đánh thức chú Ly, cô Tằm dậy, chuẩn bị dần đi là vừa…
– Đừng có cứ nhắc đến chuyện ấy là anh chị lại cười trừ thế. Mà này! Đêm qua, các anh lại làm gì bên bốt Giỗ hử? – Bà giáo bật dậy – Tôi cũng đã ngờ ngợ. Thấy dân làng gõ mõ, đánh phèng la, lại thấy lửa cháy rừng rực bên bốt Giỗ, hỏi chị ấy thì chị ấy chỉ ngập ngừng nhìn quanh. Này, anh chị bí mật bí đường với ai thì bí, nhưng với mẹ già này thì cấm, nhớ chửa? Tôi đẻ ra các anh,không lẽ gan tôi nhỏ hơn gan anh hử? Tôi là tôi kiên trì từ ngày anh mới bằng hạt tấm, lúc thầy anh còn đi với hội kín kia…
– Nào con có bí mật, bí đường gì với u đâu. Bọn con chỉ quấy rối chúng nó tí thôi. Đốt có tí hàng rào ấy mà. Giá được lệnh đập ngay một lúc cho cả cái bốt Giỗ tan tành, dẫu có chết chúng con cũng dám lắm. Nhưng lệnh trên không cho, với lại sức mình chưa đủ… Chúng con chỉ đòn gió doạ chúng nó tí rồi dùng loa tuyên truyền địch vận cho mấy thằng bên ấy sáng mắt ra thôi. Người mình mà lại cầm súng địch để lại bắn người mình, đám nguỵ quân trong ấy cũng thật khốn khổ. Thôi, u chuẩn bị đi. Thế nào nó cũng càn đấy.
Lân bước ra ngoài. Trời đang rạng dần. Cây dừa ngoài góc vườn nhà vươn những tàu lá dài như chiếc lược chải vào khoảng ban mai. Vẫn yên ắng lạ thường. Nhưng Lân ngờ ngợ, không gian này giống như bầu trời trước khi giông bão. Chắc chắn, những gì phải hứng chịu đêm qua bọn địch bên bốt Giỗ sẽ không bỏ qua. Lân cúi đầu. Anh với cái gáo dừa, múc nước đổ vào hai bàn tay, vã lên mặt. Trời vẫn rét se sắt. Làn nước nhoà khắp mặt khiến da anh rân rân. Một giọt nước rỉ vào qua kẽ miệng. Ngọt lịm. Vị ngọt lan khắp cuống họng, lạnh tê đầu lưỡi, lạnh cả trong ruột.
Anh bước vào gian buồng nhỏ, quăng người xuống chiếc giường tre. Hương lá bưởi Khứu gội đầu ẩn vào trong chiếc áo cô lấy làm gối xộc vào mũi anh. Hương thơm thân thuộc, gợi nhớ. Hàng tuần nay rồi, vợ chồng anh như vợ chồng Ngâu, chồng về vợ lại đi. Những gì mẹ anh nhắc nhở vừa rồi khiến anh nhớ về nghĩa vụ của người con, người chồng trong gia đình. Anh không mấy khi giúp mẹ, giúp vợ được gì. Cả ngày lăn lộn với công việc, lâu lắm không mấy khi anh biết vợ mình đi chợ nào, buôn bán những gì, mẹ anh chợ búa kiếm sống ra sao. Vùi mặt vào tấm áo đẫm hương bưởi từ mái tóc vợ, Lân thấy mình thật may mắn. Đặt lưng xuống cứ ngỡ sẽ ngủ được ngay, ngủ quên trời đất mà bao ý nghĩ lại cuộn về. Đôi mí mắt vừa nặng trĩu như đeo đá bỗng lại nhẹ bẫng như chưa hề có chuyện thiếu ngủ kinh niên mà anh và đồng đội của anh vẫn mắc phải.
Nằm chưa ấm chỗ, Lân giật mình bởi một tràng tiểu liên nổ ngay ngoài ngõ. Nhanh như cắt, anh lao xuống hầm. Hé mắt qua lỗ thông hơi, Lân nghe thấy mấy thằng tây đen cùng thằng tây trắng đang ầm ầm lao qua cây cầu đá, vượt qua bụi tre gai, xông vào nhà anh. Phía bên kia, chúng cũng xộc vào từng nhà, ốp hết dân ra ngồi ở sân đình. Suốt mấy tiếng đồng hồ, chúng sục sạo đến từng bờ câu bụi cỏ, nhưng không tìm thấy những gì mà chúng muốn tìm.
Bọn lính dồn hết dân Đức Đại ra đình. Chúng quây bốn bề. Cứ một sải lại một thằng tây hay một thằng nguỵ lăm lăm súng trong tay. Thằng thông ngôn bám bên cạnh tên đội Gầy như con đỉa bám vào bụng trâu, lượn đi lượn lại như đèn cù trước đám đông dân làng. Môi nó mím lại.
– Dân chúng mày gớm thật! Dám đốt bốt của quan lớn! Thằng nào đốt? Khai mau?
Đám đông dân làng vẫn yên lặng. Họ ngồi yên, đầu cúi xuống, dáng vẻ cam chịu, làm như không liên quan gì đến mình.
– Chúng mày nhất định không chịu mở mồm? Được. Ông sẽ có cách! Thằng thôn ngôn dịch lại lời của tên đội Gầy – Hương chủ, hương quản làng đâu? Điểm mục chúng nó cho tao? Đứa nào lúc này còn trốn ở lại trong nhà là một, đứa nào lờ vờ ngoài làng là hai, đích thị chúng nó du kích, là Việt Minh… Chúng mày đừng hòng thoát! Quan đồn đã thương hại không đếm xỉa đến chúng mày, thế mà chúng mày còn dung túng, chứa chấp Việt Minh để đám du kích đốt bốt của quan. Lần này, quan không tha chúng mày nữa…
Vừa nói, nó vừa bắt hương chủ, hương quản làng điểm mặt từng người. Hương chủ, hương quản vốn là người của ta cài vào nên cũng chỉ điểm mục cho có lệ, rồi bẩm:
– Bẩm quan lớn, dân Đức Đại hôm nay đủ cả, không thiếu tên nào đâu ạ.
– Đủ thật chứ? Tên đội Gầy hếch cái mũi lõ, gương mặt lưỡi cày của nó bị cái mũi kéo chếch theo, thành nhọn hoắt – thế thì thằng nào đêm qua đốt đồn?
– Bẩm quan lớn, thằng nào đốt đồn thì dân chúng con biết làm sao được?
– Cái lưỡi chúng mày dẻo lắm. Ông mà tìm ra đứa nào đốt bốt thì ông làm cỏ cả làng chúng mày. Chắc chúng mày còn chưa biết làng Chuối bên kia hẳn? Cần phải cho chúng mày tắm máu mới tẩy não chúng mày cho sáng sủa ra.
– Xin quan lớn thương tình, dân làng con là chúng con dân ngu khu đen, quanh năm chỉ biết làm ăn, cúc cung tận tuỵ phục vụ các quan, nào có ý gì đâu ạ? Hương chủ Đức Đại vẫn cúi đầu, giọng van xin thiểu não, dáng cam chịu. Dân làng vẫn ngồi yên lặng dưới sân đình, giữa cái rét tím tái của tiết tháng hai.
– Thưa sếp! Một tên lính nguỵ hớt hải chạy vào, đến trước mặt tên đội Gầy, nó giập hai gót chân, đứng như trời trồng.
– Có chuyện gì vậy? Tên đội Gầy hất hàm?
– Thưa sếp… trong lúc phục kích đường vào làng, chúng tôi bắt được hai tên khi chúng đang định vượt qua cầu Tây…
– Chúng nó đâu? Đôi mắt xanh như mắt mèo của tên đội Gầy loé lên, man dại…
– Mấy thằng nữa đang giải chúng về. Một thằng tên là Tuần Đồng, còn thằng kia nhất định không khai tên…
-Ha ha ha! Thằng đội Gầy ngửa cổ cười sằng sặc. Cục yết hầu giữa họng nó chạy lên, chạy xuống liên hồi. Dứt tràng cười điên loạn, nó rút súng bắn chỉ thiên ba phát lên trời. Đám chim ri giữa tán xoan bên cạnh đình giật mình lao vút lên làm hoa xoan trút xuống như mưa.
– Thế nào, hương chủ? Giờ thì ông còn bảo làng này không thiếu mặt thằng nào không? Nó dí cái mũi khoằm sát mặt hương chủ làng. Không thấy hương chủ làng lùi lại. ông chỉ lúc lắc đầu, điệu bộ chán nản:
– Bẩm quan lớn, ngài nhầm rồi. Đâu cứ phải người nào đi qua cầu Tây vào đây cũng là người làng tôi. Hai tay đấy không phải người Đức Đại đâu ạ!
– Thôi được, tao cũng không thừa hơi tranh cãi với mày. Nhất định những thằng ấy sẽ phải khai ra. Nhất định! Nó vừa lẩm bẩm vừa nện giầy đinh cồm cộp quanh đám dân đang vón cục lại giữa sân đình. Bất chợt cánh tay nó vung lên:
– Thằng này, thằng này, cả thằng kia nữa… Đứng dậy mau! Lần vung tay thứ nhất, tên đội chỉ vào ông Cánh. Lần vung tay thứ hai, nó chỉ vào Bùi Bá Xuyên. Đến cái chỉ tay thứ ba, tên đội Gầy dí tay sát vào Ly, em trai Lân, lúc này vừa tròn 21 tuổi. Chỉ chán, nó hét bọn lâu la:
– Chúng mày đâu! Lôi ba thằng tao vừa chỉ ra ngoài…
Đám lính ùng ục chạy vào. ông Cánh, ông Xuyên và cậu Ly bị lôi ra khỏi đám đông dân làng.
Thấy con trai thứ hai bị bọn lính túm áo, lôi ra, bà giáo Thuận đứng bật dậy:
– Thưa các quan. Đây là con trai tôi. Nhà tôi neo người quá nên nó chỉ biết ở nhà làm ruộng giúp già này chứ chẳn tham gia Việt Minh, Việt miếc gì đâu. Mong các quan soi xét, thương thân già này mà tha cho cháu
Tên đội Gầy lại ngửa cổ cười sằng sặc. Nó tiến đến sát bên cậu Ly, giơ bàn tay lông lá như bàn tay khỉ đột, nâng cằm cậu lên:
– Chỉ biết làm ruộng thôi sao? Hé hé… bà già này nói lạ. Thằng này, mặt mũi sáng sủa thế này, sao lại chỉ làm ruộng? Nhất định nó là Việt Minh…. Mà không chừng, chính nó trong bọn đêm qua sang đốt bốt Giỗ. Cứ lôi nó về đồn, trắng đen thế nào, quan đồn khắc biết…
Đám lính túm áo Ly lôi đi. Tằm lăn xả vào, túm chặt tên lính đang túm áo Ly, khóc thảm thiết:
– Xin các quan tha cho anh con. Anh con không phải Việt Minh…
– Anh mày không là Việt Minh thì đứa nào là Việt Minh. Mày chỉ được, các quan tha cho anh mày ngay… tên lính dí khẩu tiểu liên vào đầu Tằm. Cô bé vẫn lắc đầu:
– Cháu không biết Việt Minh thế nào. Cháu cũng chưa nhìn thấy Việt Minh bao giờ. Anh cháu không phải là Việt Minh. Nhà cháu chỉ có một mình anh ấy, giờ các quan bắt anh cháu đi thì mẹ con cháu biết trông cậy vào ai?
– Con lỏi con này. Mày có im ngày không? Mày mà còn lắm mồm kêu khóc, chúng ông bắt cả nhà mày bây giờ…
Tằm vẫn không chịu buông tên lính đang túm áo Ly. Nước mắt nước mũi nhoè nhoẹt trên gương mặt cô bé. Cô khóc đã lạc cả giọng mà vẫn không giữ được anh trai lại. Thấy không thể ngăn được đám lính đang lôi Ly đi, bà giáo ôm lấy Tằm, lôi cô bé về phía mình. Đám lính tàn bạo này chắc chắn sẽ không lùi bước trước một đứa bé con như Tằm. Nếu cứ găng, nó sẽ bắn chết ngay chứ chẳng chơi. Không thể cùng một lúc mất đi hai giọt máu của mình. Bà đành đứt ruột nhìn đám lính Pháp lôi Ly đi cùng cụ Cánh, ông Xuyền. Rồi sẽ tìm cách gỡ sau.
Qua lỗ thông hơi của căn hầm, Lân nghe thấy hết. Anh biết, em trai mình đã bị tụi Pháp bắt. Ruột anh thắt lại khi nghe tiếng kêu khóc của em gái và tiếng van xin của mẹ. Nhưng bọn lính này đâu có biết tiếng người. Chúng đâu đếm xỉa đến nỗi đau đồng loại chúng đang gánh chịu. Anh muốn nói với mẹ và em gái anh điều ấy. Vậy là mất mát đã ập đến chính ngôi nhà của anh. Lân thoát ly kháng chiến, mẹ anh đã nhiều đêm mất ngủ. Giờ lại đến Ly bị bắt, chắc chỉ nay mai thôi, tóc trên đầu mẹ anh sẽ lại gội thêm một lần bạc.
Nếu được phép của tổ chức lúc này, Lân sẵn sàng cầm lựu đạn xông thẳng vào đám lính kia. Nhưng anh không thể làm trái với những gì tổ chức đã quy định, không thể đặt thù nhà lên trên nợ nước.
**
*
Bọn lính đã rút hết. Bà giáo Thuận lạu đạu vào nhà. Bà ngồi bệt xuống nền đất, tấm lưng gầy như gù thêm xuống:
– Chết, chết… Bà giáo ạ, ai lại để thế… Bà lão bên hàng xóm cũng đánh bệt xuống thềm. Cái mê nón quăng tạch trên nền đất – cậu Ly hơn hớn ra thế mà bà lại để cậu ấy ra điểm mục ngoài đình thì thoát sao được cái mắt cú vọ của thằng đội Gầy? Giờ bà giáo phải tính thế nào chứ?
– Biết tính thế nào hở bà? Thì cứ nghĩ nó không ở làng này, nó biết ai vào với ai? Với cả thằng Ly cũng không thể lần nào cũng không ra điểm mục được. Nó biết nhà tôi có con trai rồi. Thằng anh đã đi biền biệt, thằng em không ra điểm mục, đời nào nó để yên…
– Hay bà giáo cứ goi cậu Lân về xem cậu ấy có cách nào không?
– Cách gì được. Chúng lôi tất mấy ông cháu về bốt rồi. Chắc là đòn tra khảo dữ lắm. Không biết mấy ông cháu có bảo nhau mà chịu được không?
– Hôm trước tôi đi chợ, gặp mấy bà bên Cuối, họ bảo người nhà mình không may bị nó lôi bắt vào bốt cứ nhận bừa làm một cái nghề gì đó, nhất là nghề thợ xây là chúng sẽ không tra nữa mà sẽ đưa đi làm phu ngay. Nó đang kíp thợ xây bốt lắm bà giáo ạ. Chỉ cần không bị giam trong căng, trong bốt, ra ngoài thế nào cũng có cơ thoát. Giá có ai mách cho cậu Ly nhà mình mẹo này thì may ra thoát được.
– Thế hở bà? Để tôi bảo thằng cháu Lân xem sao?
– Thôi tôi về đây. Còn ra đồng lần hồi xem có con cua, con ốc gì không. Ba ngày chúng nó càn năm trận thế này, đến cỏ cây cũng không ngóc đầu lên được, nói gì đến người. Giá mà được đánh tan mẹ nó cái bốt Giỗ đi được nhỉ bà giáo nhỉ… Thôi, tôi về nhá…
Bà lão hàng xóm qué cái mê nón sau mông, lụi hụi đi ra. Bà giáo nhìn quanh, gõ nhẹ vào đầu ba ông đầu rau mấy cái rồi dịch chúng sang một bên. Gạt lớp tro than trên mặt đất, bà nhấc nắp hầm qua bên cạnh. Lân chống hai tay lên mép miệng hầm, vươn người, co chân nhảy lên mặt đất như con tôm búng mình rời mặt nước. Chưa cần bà giáo phải nói thêm, Lân xoa hai tay vào nhau, giọng nhẹ nhàng:
– U đừng lo quá. Chú Ly sẽ không làm gì hổ thẹn đến gia đình mình đâu. Bao lần chú ấy vác loa đi địch vận cùng con, cũng cứng cỏi lắm rồi…
– Anh bảo u không lo làm sao được. Con mình sa vào tay quân ăn thịt người ấy, liệu em anh có ăn miếng giả miếng với chúng nó được không? Dại miệng, đòn roi không chịu được mà khai này khai nọ, dẫu có là khai láo cũng tủi hổ cả đời. Rồi dân làng nhổ vào mặt cho ấy chứ!
– Thôi, chú Ly cũng cứng cáp rồi, cứ để từ từ con sẽ nhắn vào xem tình hình chú ấy trong bốt thế nào… U cứ ngồi than thở cũng phỏng ích lợi gì đâu…
– ừ, thôi, anh em máu chảy ruột mềm, anh tính thế nào thì tính. Mà cứ bảo nó nhận là biết xây, chết cũng không được khai gì. Thà thế còn hơn là khai ra, sống mà nhục thì u cũng không ngẩng mặt được lên mà nhìn bà con làng xóm đâu, nhá…
– Con tin, anh em con không làm gì để tiếng xấu lại cho u đâu. U cứ bình tâm. Con đã nghe bác hàng xóm bàn với u rồi. Chắc chú Ly cũng sẽ tìm được cớ tránh đòn roi của chúng nó thôi. Mà con đi đây, nhà con đi chợ về, u cứ từ từ nói kẻo cô ấy lại cuống lên, u nhé. Nhiều người lo quá cũng không giải quyết được gì. Ngày mai, u cứ chợ búa bình thường, mình hoang mang lo lắng quá là chúng ó thắng đấy. Chúng cũng sẽ còn càn vào đây nhiều, mà có lần nào càn vào, nó lại không bắn, giết, bắt bớ đâu…
– ừ thì vưỡn biết thế. Nhưng anh cả bảo, u không lo sao được…
Lân quẩy quả định bước chân ra ngõ thì Khứu lao vào sân. Đặt đôi quang thúng một góc, cô tháo khăn che mặt, vừa lau mồ hôi vừa hổn hển:
– Chú Ly bị bọn bốt Giỗ bắt sáng nay, mình biết không?
– Tôi biết rồi. Lúc chúng nó càn sang, tôi ở dưới hầm. Mình nghe ở đâu mà đã biết thế?
– Em đi chợ, về đến quán Múc đã nghe dân đang làm cỏ dưới đồng bàn tán rồi. Nhưng vẫn chưa biết chú Ly nhà ta bị bắt. Đến gần cầu xi măng thì biết. Em gánh rau, vờ đi bán ngang bốt, tiện thể rẽ vào bên bà ngoại xem tình hình thế nào. Gặp anh Xoa, nhân mối của mình bên ấy, anh bảo, chú Ly bị bắt vào đấy không khai báo gì đâu. Chú ấy cùng ông Cạc người bên làng Cuối nhận là chỉ biết đi xây nên chỉ nay mai, chúng nó sẽ đưa chú Ly với ông Cạc lên Hải Dương xây boongke thôi… U với mình đừng lo quá!
– Thật thế không nhà Lân? Ơn giời, nếu được thế thì phúc tổ. Nó bị bắt làm phu, xây bốt, vác đạn, tấm thân nó bị đầy đoạ cũng còn chịu được. Dại miệng, thằng Ly có mệnh hệ nào u cũng không lo, không đau bằng nó không giữ được mình. Nhưng nó đã không khai báo, không để lộ bí mật của làng, của Đảng, thế là nó đã giữ được gia phong tổ tiên mình để lại rồi… Chị Lân! Lấy cho tôi chén nước sạch, đặt lên ban thờ ấy.
Bà giáo lại lạu đạu đứng lên. Rút ba nén hương, bà châm lửa, cúi đầu trước ban thờ, lầm rầm khấn vái. Chắc bà muốn kính cáo với tổ tiên về việc con cháu mình đã giữ được nết nhà. Tấm lòng người mẹ với các con thật vĩ đại. Nhưng tấm lòng mẹ với đảng, với cách mạng còn lớn lao hơn. Giọt máu của mình sinh ra, vậy mà mẹ không lo mất bằng những gì liên quan đến Đảng, đến cách mạng. Mảnh đất nghèo này, có những bà mẹ như mẹ anh, liệu quân địch có đánh cướp mãi được không?
Vừa nhìn mẹ, trong đầu Lân, câu hỏi ấy cứ trở đi trở lại. Hình ảnh mẹ bây giờ và hình ảnh mẹ của những ngày gian khổ khi anh còn bé tí cứ thế hiện về. Cũng vẫn cái tảo tần, tất tả. Cũng vẫn dáng cam chịu, nhẫn nại. Nhưng chất chứa đằng sau vóc dáng ấy là cả tấm lòng kiên trung vĩ đại. Dường như tất cả các bà mẹ trên mảnh đất quê này đều như thế. Các anh sẽ phải sống, phải chiến đấu giành lại mảnh đất này bởi các anh không thể phụ công của nhữg người đã sinh thành, nuôi dưỡng ra mình, không thể phụ công những bà mẹ bình thường mà vĩ đại như chính mẹ của anh!