Alfred Nobel
Khi Alfred Nobel quyết định thực hiện món quà tặng khổng lồ của mình, món quà hiển nhiên được rất nhiều người quan tâm, sự nghiệp của cả cuộc đời khiến ông đề cao việc nghiên cứu tự nhiên và muốn trao giải thưởng cho những phát kiến thuộc một số lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Cũng vậy, khát vọng thế giới chủ nghĩa đã biến ông trở thành người biện hộ cho hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Ông cũng muốn dành một giải thưởng cho văn học, nhưng đặt nó sau khoa học, những lĩnh vực có sức hút mạnh nhất đối với ông.
Văn học phải biết ơn ông, bởi những nhà hoạt động văn chương cũng trở thành đối tượng được ông quan tâm đến.
Người ta có thể chỉ rõ rằng văn học đứng sau cùng trong danh sách giải thưởng của Viện Hàn lâm Thụy Điển là bởi một lý do rất chính đáng: văn học – bông hoa cao quý nhất của nền văn minh, có lẽ là thứ đẹp nhất nhưng cũng mỏng manh nhất, từ nay sẽ nở rộ trên mảnh đất của hiện thực. Trong bất cứ lĩnh vực nào, với những bông hoa tặng của thời hiện đại này, người đoạt giải cũng nhận được một giá trị vật chất vượt xa những bông violet vàng của thời xưa. Giải thưởng Nobel dành cho văn học cũng có những vấn đề của nó. Văn học là một thuật ngữ có nội dung rất rộng và những quy chế của Quỹ Nobel đã quy định rất chính xác rằng cuộc tham gia tranh giải không chỉ riêng belles-lettres – văn chương sáng tác, mà bất kỳ tác phẩm nào có giá trị văn học, thông qua nội dung và hình thức của nó. Nhưng như vậy, phạm vi trao giải rất rộng và sẽ dẫn đến nhiều khó khăn. Nếu như việc quyết định sẽ trao giải cho ai trong số các nhà thơ theo trường phái trữ tình, sử thi hay bi kịch đã là khó khăn, thì nhiệm vụ còn khó khăn hơn nhiều nếu phải lựa chọn giữa một sử gia kiệt xuất, một triết gia thiên tài, và một nhà thơ vĩ đại. Đó là những đại lượng vô ước, nói theo cách của các nhà toán học. Nhưng ta có thể tự an ủi rằng, do giải thưởng được trao hàng năm, các tác giả xứng đáng được trao giải nhưng phải nhường vị trí đó cho một người khác ngang tài, có thể được nhận giải trong những năm sau. Rất nhiều người xuất sắc đã được đề cử lên Viện Hàn lâm Thụy Điển cho giải thưởng văn học. Viện đã tổ chức một cuộc bình chọn thật cẩn thận. Trong số những tên tuổi nổi tiếng khắp toàn cầu và gần như ngang nhau về tài năng văn học, Viện quyết định chọn một người mà họ, theo nhiều quan điểm khác nhau, tin tưởng ông xứng đáng được nhận giải lần này. Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải Nobel Văn học đầu tiên cho nhà thơ, triết gia Sully Prudhomme của Viện Hàn lâm Pháp.
Biên soạn:
Đoàn Tử Huyến
Với sự cộng tác của:
Bằng Việt, Nguyễn Trọng Tạo,
Nguyễn Viết Thắng, Yên Sa
Trong sách sử dụng các bản dịch của:
Hoàng An, Huyền Anh, Đăng Bảy, Hoàng Ngọc Biên,
Phạm Quốc Ca, Nguyệt Cầm, Diễm Châu, Trần Mai Châu,
Hoàng Minh Châu, Tạ Minh Châu, Quang Chiến,
Nguyễn Mạnh Cường, Mai Diên, Kiều Diệp, Trương Đăng Dung, Quốc Dũng, Nguyễn Đức Dương, Đặng Anh Đào,
Trần Trung Đạo, Trần Tiễn Cao Đăng, Cao Huy Đỉnh, Tân Đôn, Nguyễn Trung Đức, Trần Đương, Lưu Hải Hà, Hồ Văn Hiền,
Đỗ Khánh Hoan, Đoàn Tử Huyến, Hoàng Hưng, Trần Việt Hưng,
Nguyễn Quỳnh Hương, Nguyễn Khuyến, Ngô Tự Lập, Đắc Lê, Thanh Loan, Hoàng Long, Vương Ngọc Long, Nguyễn Việt Long,
Trịnh Lữ, Lâm Quang Mỹ, Phạm Nguyên Phẩm, Chân Phương,
Tạ Phương, Hồng Thanh Quang, Nguyễn Văn Quảng,
Đào Xuân Quý, Nguyên Tâm, Thái Bá Tân, Lãng Thanh,
Thanh Thảo, Nguyễn Viết Thắng, Nguyễn Phan Thịnh,
Lê Bá Thự, Nguyễn Đăng Thường, Lê Nguyên Tịch,
Thanh Tịnh, Phạm Toàn, Thúy Toàn, Phạm Vũ Toản,
Lưu Đức Trung, Lê Khánh Trường, Hoàng Ngọc Tuấn,
Dương Tất Từ, Lã Thanh Tùng, Dương Tường,
Nguyễn Tiến Văn, Kiều Vân, Nguyễn Bích Vân,
Phạm Thanh Vân, Bằng Việt, Nghiêm Huyền Vũ, Ngân Xuyên
( Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây giữ bản quyền:
* về bố cục, trình bày và toàn bộ nội dung tiểu sử, phụ lục;
* các bản dịch do Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây tổ chức thực hiện;
* các bản dịch thơ của Huyền Anh, Nguyễn Viết Thắng.
– Culture Globe giữ bản quyền về các bản dịch do Culture Globe tổ chức thực hiện.
– Các tác giả, dịch giả khác giữ bản quyền tác phẩm của mình.
Tủ sách Nobel
Biên soạn:
Đoàn Tử Huyến
Với sự cộng tác của:
Bằng Việt, Nguyễn Trọng Tạo,
Nguyễn Viết Thắng, Yên Sa
Các Nhà thơ
GIẢI NOBEL
(1901 – 2006)
Tiểu sử
Lời tuyên dương và Diễn từ Nobel
Tác phẩm
Phụ lục
Nhà xuất bản Lao động
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
Hà Nội – 2006
Lời người biên soạn
Trong chủ trương chung tổ chức Tủ sách Nobel nhằm giới thiệu với bạn đọc Việt Nam tinh hoa văn học thế giới, tiếp theo tập sách Các nhà văn giải Nobel (Nhà xuất bản Giáo dục, 2005) giới thiệu tương đối ngắn gọn tiểu sử và diễn từ của các nhà văn được giải, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây lần lượt biên soạn các tập sách về giải Nobel theo từng khu vực, thể loại và tác giả với một hình mẫu bố cục tương đối thống nhất. Theo dự định, trong năm 2006 chúng tôi cho ra mắt bạn đọc các tập sách sau: Tuyển tập tác phẩm Y. Kawabata (Nhật Bản, giải Nobel năm 1968), Tuyển tập tác phẩm Cao Hành Kiện (quốc tịch Pháp gốc Trung Quốc, giải Nobel năm 2000)(1), Các nhà văn Nga giải Nobel, Các nhà văn Ba Lan giải Nobel, v.v…; một số cuốn khác đang trong quá trình biên soạn. Cuốn sách Các nhà thơ giải Nobel bạn đang có trên tay thuộc tủ sách đó.
Về quy cách biên soạn, xin được trình bày như sau:
Các nhà thơ giải Nobel là cuốn sách vừa mang tính thông tin tra cứu về các nhà thơ đoạt giải Nobel Văn học trong hơn 100 năm qua, vừa chọn lọc giới thiệu với bạn đọc những tác phẩm tiêu biểu của các nhà thơ đó. Trong số 103 nghệ sĩ ngôn từ đoạt Giải Nobel Văn học từ năm 1900 đến năm 2006 có 24 nhà thơ chuyên nghiệp (17 tác giả chuyên viết thơ, 7 tác giả hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực thơ, như R. Tagore, B. Pasternak, O. Paz, v.v…); nhưng số người sáng tác thơ, nhiều hoặc ít, thì đông đảo hơn. Chúng tôi chọn trong số đông đảo đó được 31 tác giả (bao gồm toàn bộ 24 nhà thơ chuyên nghiệp đoạt giải) để đưa vào tập sách này. Dĩ nhiên đây chưa phải là tất cả số nhà văn đoạt giải Nobel có làm thơ, nhưng họ là những người tiêu biểu nhất, xứng đáng được gọi là nhà thơ.
Các mục từ trong tập sách được biên soạn như sau:
1. Các nhà thơ trong sách được xếp theo thứ tự thời gian nhận giải, bắt đầu từ năm 1901 cho đến năm cuối cùng tính đến thời điểm này, năm 2006.
2. Mỗi mục từ của từng nhà thơ gồm:
2.1. Ảnh chân dung và một số tranh ảnh minh họa khác, nếu có;
2.2. Tiểu sử nhà thơ: giới thiệu thông tin về các mốc chính trong cuộc đời, chú ý đến những sự kiện trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự nghiệp và sáng tác của mỗi người với tư cách là nhà thơ;
2.3. Danh mục Tác phẩm: cố gắng thống kê đầy đủ các tác phẩm (chủ yếu là các tập sách, hoặc các tác phẩm lớn đã được in thành sách) của mỗi nhà thơ, theo thứ tự thời gian sáng tác hoặc công bố. Mỗi mục Tác phẩm gồm:
* Tên tác phẩm dịch sang tiếng Việt: chúng tôi cố gắng dịch sát theo tên nguyên tác. Đây là một việc rất khó, vì có nhiều trường hợp dù biết nghĩa (đen) tên sách nhưng không đọc nắm được nội dung thì cũng không thể dịch chính xác tên tác phẩm được;
* Tên nguyên tác;
* Năm sáng tác hoặc xuất bản;
* Thể loại;
* Một số trường hợp nhằm giúp bạn đọc tiện tra cứu tham khảo, có ghi kèm theo tên tác phẩm được dịch ra tiếng Anh (để trong ngoặc [ ]);
* Một số thông tin khác, nếu có.
Trong những trường hợp, do không đủ nguồn tư liệu hoặc không xác định được chắc chắn thông tin, chúng tôi tạm thời để trống một số mục, sẽ xin bổ sung vào những lần in sau.
2.4. Danh mục Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: chúng tôi cho đây là thông tin quan trọng đối với người học, người đọc Việt Nam nên đã cố gắng thống kê đầy đủ đến mức nguồn tài liệu cho phép (kể cả các tác phẩm công bố trên các website của mạng internet); các tác phẩm được in nhiều lần, chúng tôi không chủ trương liệt kê hết các lần công bố hoặc chủ ý tìm ra lần in đầu tiên, mà chỉ ghi lại một (hoặc một vài) văn bản chúng tôi tiện có trong tay. Tên sách tiếng Việt của các tác phẩm đã dịch được ghi đúng theo các bản dịch đã công bố; trong trường hợp những tên này khác nghĩa so với tên nguyên tác, chúng tôi chú thêm tên nguyên tác để bạn đọc tham khảo.
2.5. Lời tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển đối với nhà thơ đoạt giải, thường do thư ký thường trực của Viện Hàn lâm Thụy Điển đọc trong buổi lễ trao giải ngày 10 tháng 12 hàng năm tại Stockholm.
2.6. Diễn từ: do nhà thơ đọc trong buổi lễ trao giải tại Stockholm và trong bữa tiệc Nobel. Hiện nay chúng tôi đã tìm dịch đủ Diễn từ của các nhà thơ, trừ những người vì những lý do khác nhau không có diễn từ; với nhà thơ ấn Độ R. Tagore (không đến nhận giải) chúng tôi cho in bài tiểu luận Tôn giáo của nhà thơ, và với nhà thơ Nga B. Pasternak (buộc phải từ chối nhận giải) chúng tôi đăng bài thơ Giải thưởng Nobel của ông vào mục Diễn từ.
2.7. Tác phẩm: chúng tôi tuyển chọn bản dịch một số tác phẩm thơ tiêu biểu của các tác giả; tuy nhiên do nguồn tài liệu hạn chế, nhất là khó tìm được tác phẩm của các tác giả nửa đầu thế kỷ XX và của các nhà thơ viết bằng những ngôn ngữ không phổ biến lắm, nên số lượng cũng như mức độ tiêu biểu của tác phẩm được đưa vào tập sách của các tác giả là không đồng đều. Mỗi nhà thơ chúng tôi chọn trung bình trên dưới 10 tác phẩm, trừ những trường hợp không thể tìm đủ số lượng đó (có vài người chỉ được 2 – 3 bài); với những tác giả có nguồn tài liệu phong phú chúng tôi cũng chỉ tuyển đưa vào sách không quá 20 thi phẩm. Về chất lượng, chúng tôi đã cố gắng chọn lựa, biên tập và hiệu đính các bản dịch; nhưng vì chuyển ngữ thơ là rất khó, lại nhiều người dịch từ nhiều thứ tiếng khác nhau (dưới mỗi bản dịch, nếu có điều kiện, chúng tôi chú rõ được thực hiện từ ngôn ngữ nào), đồng thời phải khuôn trong một đề tài không dễ là Thơ của các tác giả Giải Nobel, nên chắc chắn có những chỗ chưa thể làm hài lòng bạn đọc được.
Ở đây cũng xin nói thêm, là ngoài phần bản thảo do các cộng tác viên của Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây cung cấp, vì muốn cho cuốn sách có chất lượng, đầy đủ và phong phú hơn, trong phần Tác phẩm, người biên soạn có sử dụng một số bản dịch sưu tầm được từ các nguồn sách báo, internet của các dịch giả chúng tôi chưa quen biết và chưa liên hệ được để xin phép. Những người làm sách xin được lượng thứ cho điều này và sẽ tìm cách bổ cứu, sửa chữa khi điều kiện cho phép; kính mong các vị có tác phẩm được sử dụng trong tập sách này liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ ở cuối sách. Về nguồn tài liệu, trừ những bản dịch do chúng tôi tổ chức và chưa công bố ở đâu cả, với phần lớn những tài liệu chúng tôi đều cố gắng ghi lại xuất xứ (xem mục Các tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt của mỗi tác giả).
3. Về tên riêng và phiên âm/tự: đến nay đây vẫn là vấn đề phức tạp và không thống nhất trong tiếng Việt; chúng tôi tạm tuân theo định hướng làm việc như sau:
3.1. Các tên riêng gốc từ các ngôn ngữ được viết bằng chữ cái Latinh (như tiếng Pháp, Anh, Đức, Italia…) chúng tôi giữ nguyên; từ các ngôn ngữ khác dùng bảng chữ cái (tiếng Nga, Slav…) chúng tôi phiên tự trực tiếp từ ngôn ngữ đó chứ không qua trung gian các thứ tiếng khác như tiếng Anh hoặc tiếng Pháp (ví dụ: Puskin chứ không phải Pouchkine, Praha chứ không phải Prague…); trừ một số trường hợp hai cách phiên âm này tương đối gần giống nhau và trong tiếng Việt không có âm trùng khớp với âm nguyên ngữ, chúng tôi lấy theo cách phiên âm trung gian (Anh hoặc Pháp) để tiện tra cứu; các trường hợp tên riêng gốc từ các ngôn ngữ ít phổ biến và có những cách phiên khác nhau thông qua các ngôn ngữ trung gian, chúng tôi ghi theo cách phiên âm Latinh hóa đã quen dùng trong sách báo nước ngoài cũng như ở Việt Nam những năm gần đây.
3.2. Do trong cuốn sách sử dụng nhiều nguồn văn bản, mà mỗi văn bản lại có cách phiên âm khác nhau, chúng tôi xin phép được quy về theo cách của chúng tôi đã nói ở trên; tuy nhiên có những trường hợp không tra cứu được tên gốc, chúng tôi đành để nguyên như được ghi trong văn bản đó.
4. Để bạn đọc tham khảo, trong từng trường hợp cụ thể chúng tôi có thể đưa thêm Phụ lục gồm:
4.1. Một số bản dịch khác nhau của cùng một bài thơ, hoặc các tài liệu bổ ích liên quan đến bài thơ hoặc tác giả đó;
4.2. Một số hình ảnh về các nhà thơ đoạt giải Nobel;
4.3. Danh sách tất cả 103 nhà văn đoạt giải Nobel xếp theo trật tự ABC của bảng chữ cái Latinh, kèm theo họ tên viết bằng ngôn ngữ gốc và hướng dẫn cách phát âm (tương đối) bằng tiếng Việt;
4.4. Một số thông tin bổ ích và thú vị về các nhà văn, nhà thơ được giải Nobel.
Do đây là công trình bước đầu, thiếu tư liệu, điều kiện và trình độ những người soạn hạn chế nên cuốn sách còn nhiều thiếu sót, mong được bạn đọc chỉ bảo giúp đỡ cho những lần in sau được hoàn chỉnh dần.
Đoàn Tử Huyến
Sully Prudhomme
(16/3/1839 – 7/9/1907)
Nhà thơ Pháp
Giải Nobel Văn học 1901
Sully Prudhomme là người đầu tiên trên thế giới được trao giải Nobel Văn học vì những giá trị văn chương xuất sắc, chủ nghĩa lý tưởng cao cả, nghệ thuật hoàn thiện và sự kết hợp độc đáo tình cảm và tài năng. Những lý tưởng nhân đạo của ông đã đưa thơ thoát khỏi bóng tối của chủ nghĩa bi quan.
Hãy thương những bài ca từng run lên bao âu lo, báo động
Khi các anh sẽ đến thời được hạnh phúc hơn,
được thấu hiểu nhiều hơn
Để sẽ được viết lên những điều cao cả hơn
trong những bài thơ không còn nước mắt.
Sully Prudhomme
Sully Prudhomme
I. Tiểu sử 11
II. Lời tuyên dương và diễn từ Nobel 13
– Lời tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển 13
Thanh Loan dịch; Ngô Tự Lập hiệu đính
III. Tác phẩm 16
– Gửi những nhà thơ tương lai 16
Bằng Việt dịch
– ở cõi tục này 17
Bằng Việt dịch
– Giống nhau 18
Nguyễn Viết Thắng dịch
– Giọt sương 18
Nguyễn Viết Thắng dịch
– Những ánh mắt 19
Vương Ngọc Long phỏng dịch
– Hora Prima 20
Nguyễn Viết Thắng dịch
– Chiếc bình vỡ 20
Phạm Vũ Toản dịch
– Phụ lục: Vết thương lòng (thơ của Lan Sơn) 21
I
Tiểu sử
Sully Prudhomme, tên thật là René Franoxois Armand Prudhomme, con của một thương nhân, sinh ngày 16 tháng 3 năm 1839 tại Paris. Năm nhà thơ tương lai vừa lên hai tuổi, bố ông qua đời, hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông cùng mẹ và chị gái chuyển đến sống với một người chú. Từ bé ông học giỏi toán, sau tốt nghiệp trung học dự định vào Đại học Bách khoa để trở thành kĩ sư, nhưng vì mắc bệnh nặng về mắt nên phải từ bỏ ý định. Từ năm 1860, ông đã phải tự đi làm nhiều nghề kiếm sống, buổi tối về nghiên cứu triết học và làm thơ. Tập thơ đầu tay Tứ tuyệt và các bài thơ xuất bản năm 1865 dưới bút danh Sully Prudhomme (tên của bố ông) được đánh giá cao; sau đó ông gia nhập nhóm Thi Sơn (tiếng Pháp: Parnasse) và cho ra mắt các tập thơ về đề tài tình yêu (bị một cô gái từ chối, nhà thơ suốt đời sống độc thân) và về sự mâu thuẫn giữa khoa học và tôn giáo.
Năm 1870, nổ ra chiến tranh Pháp – Phổ, ông tự nguyện gia nhập dân quân. Những túng thiếu, vất vả trong thời kỳ quân Phổ phong tỏa Paris khiến sức khỏe đã yếu của ông càng thêm trầm trọng, ông bị liệt và phải cắt hai chân sau khi cuộc phong tỏa chấm dứt. Trong thời kỳ chữa bệnh, ông vẫn viết thơ ái quốc (ấn tượng chiến tranh, 1870), cổ vũ thơ truyền thống, phản đối thơ tự do, chủ nghĩa tượng trưng, suy đồi (Di chúc thơ, 1900). Năm 1888 ông xuất bản trường ca Hạnh phúc, gồm 4000 câu thơ, khẳng định hạnh phúc có thể đạt được nhờ sự ham học hỏi, nhờ khoa học, nhờ lòng thiện và sự hy sinh. Năm 1901 S. Prudhomme là người đầu tiên trên thế giới được trao giải Nobel Văn học, nhưng ông không đến Thụy Điển được để nhận giải do bị bệnh nặng.
Những năm cuối đời ông tiếp tục sáng tác, viết khảo luận về tôn giáo, tâm lý. Ông mất tại nhà riêng ở ngoại ô Paris năm 1907.
Đương thời S. Prudhomme là nhà thơ rất có tên tuổi và được kính trọng, nhưng ngày nay ông ít được biết đến, thậm chí ở Pháp. Ông là người đã lập ra giải văn học dành cho các nhà thơ trẻ bằng số tiền còn lại của giải Nobel mà ông được tặng.
* Tác phẩm:
– Tứ tuyệt và các bài thơ (Stances et poèmes, 1865), thơ.
– Thử thách (Les épreuves, 1866), thơ.
– Những phác thảo về Italia (Croquis Italiens, 1866-1868), thơ.
– Nỗi cô đơn (Les solitudes, 1869), thơ.
– Ấn tượng chiến tranh (Impression de la guerre, 1870), thơ.
– Nước Pháp (Le France, 1870), thơ.
– Định mệnh (Les destins, 1872), thơ.
– Loài hoa nổi loạn (La révolte des fleurs), thơ.
– Lòng dịu dàng hoài phí (Les vaines tendresses, 1875), thơ.
– Hạnh phúc (Le bonheur, 1888), trường ca.
– Công lý (La justice, 1888), thơ.
– Di chúc thơ (Le testament poétique, 1900), tiểu luận.
– Tôn giáo đích thực theo Pascal (La vraie religion selon Pascal, 1905), khảo luận.
– Vấn đề mục đích cuối cùng (Le problème des causes finale, 1906), khảo luận.
– Tâm lý của sự tự do lựa chọn (Psychologie du libre arbitre, 1906), khảo luận.
– Phiêu bạt (Les epaves, xuất bản năm 1908), thơ.
* Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt:
– Dưới trần gian (thơ), Quốc Vượng dịch, in trong Những áng thơ hay, Nxb Văn học – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 1999.
– Những đôi mắt (thơ), Nguyễn Công Chương dịch, in trong Những áng thơ hay, Nxb Văn học – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2000.
– Gửi những nhà thơ tương lai, ở cõi tục này (thơ), Bằng Việt dịch, in trong Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX, Nxb Văn học 2005.
– Chiếc bình vỡ (thơ), Phạm Vũ Toản dịch, in trong Hương sắc bốn phương, Nxb Hội Nhà văn, 2003.
– Bình vỡ, Những con mắt (thơ), Phạm Nguyên Phẩm dịch, in trong 100 bài thơ Pháp từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, 1998.
II.Lời tuyên dương và Diễn từ NOBEL
Lời tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển (1)
Khi Alfred Nobel quyết định thực hiện món quà tặng khổng lồ của mình, món quà hiển nhiên được rất nhiều người quan tâm, sự nghiệp của cả cuộc đời khiến ông đề cao việc nghiên cứu tự nhiên và muốn trao giải thưởng cho những phát kiến thuộc một số lĩnh vực khoa học tự nhiên. Cũng vậy, khát vọng thế giới chủ nghĩa đã biến ông trở thành người biện hộ cho hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Ông cũng muốn dành một giải thưởng cho văn học, nhưng đặt nó sau khoa học, những lĩnh vực có sức hút mạnh nhất đối với ông.
Văn học phải biết ơn ông, bởi những nhà hoạt động văn chương cũng trở thành đối tượng được ông quan tâm đến. Người ta có thể chỉ rõ rằng văn học đứng sau cùng trong danh sách giải thưởng của Viện Hàn lâm Thụy Điển là bởi một lý do rất chính đáng: văn học – bông hoa cao quý nhất của nền văn minh, có lẽ là thứ đẹp nhất nhưng cũng mỏng manh nhất, từ nay sẽ nở rộ trên mảnh đất của hiện thực. Trong bất cứ lĩnh vực nào, với những bông hoa tặng của thời hiện đại này, người đoạt giải cũng nhận được một giá trị vật chất vượt xa những bông violet vàng của thời xưa.
Giải thưởng Nobel dành cho văn học cũng có những vấn đề của nó. Văn học là một thuật ngữ có nội dung rất rộng và những quy chế của Quỹ Nobel đã quy định rất chính xác rằng cuộc tham gia tranh giải không chỉ riêng belles-lettres – văn chương sáng tác, mà bất kỳ tác phẩm nào có giá trị văn học, thông qua nội dung và hình thức của nó. Nhưng như vậy, phạm vi trao giải rất rộng và sẽ dẫn đến nhiều khó khăn. Nếu như việc quyết định sẽ trao giải cho ai trong số các nhà thơ theo trường phái trữ tình, sử thi hay bi kịch đã là khó khăn, thì nhiệm vụ còn khó khăn hơn nhiều nếu phải lựa chọn giữa một sử gia kiệt xuất, một triết gia thiên tài, và một nhà thơ vĩ đại. Đó là những đại lượng vô ước, nói theo cách của các nhà toán học. Nhưng ta có thể tự an ủi rằng, do giải thưởng được trao hàng năm, các tác giả xứng đáng được trao giải nhưng phải nhường vị trí đó cho một người khác ngang tài, có thể được nhận giải trong những năm sau.
Rất nhiều người xuất sắc đã được đề cử lên Viện Hàn lâm Thụy Điển cho giải thưởng văn học. Viện đã tổ chức một cuộc bình chọn thật cẩn thận. Trong số những tên tuổi nổi tiếng khắp toàn cầu và gần như ngang nhau về tài năng văn học, Viện quyết định chọn một người mà họ, theo nhiều quan điểm khác nhau, tin tưởng ông xứng đáng được nhận giải lần này. Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải Nobel Văn học đầu tiên cho nhà thơ, triết gia Sully Prudhomme của Viện Hàn lâm Pháp.
Sully Prudhomme sinh ngày 16 tháng 3 năm 1839. Và năm 1865, ông đã nổi lên như một nhà thơ đỉnh cao với tác phẩm Tứ tuyệt và các bài thơ (Stances et poèmes). Sau tập thơ này là nhiều tác phẩm thơ ca, triết lý và mỹ học khác. Nếu trí tưởng tượng của những nhà thơ khác chủ yếu là hướng ra ngoài nhằm phản ánh cuộc sống và thế giới xung quanh, thì Sully Prudhomme lại có một bản tính hướng nội, vừa nhạy cảm vừa tinh tế. Trong thơ ông hiếm có những hình ảnh và tình huống thực của đời sống, mà chủ yếu là những hình ảnh và tình huống đóng vai trò tấm gương trầm tưởng thi ca. Tình yêu đối với những giá trị tinh thần, sự ngờ vực, nỗi sầu thảm mà không gì trên trần thế có thể xua tan được, đó là những chủ đề thường gặp trong thơ ông, những tác phẩm hoàn thiện về hình thức và mang vẻ đẹp của nghệ thuật điêu khắc, trong đó không bao giờ có một từ thừa. Thơ ông mang màu sắc đa dạng, mặc dù hiếm khi mang giai điệu du dương nhưng lại cực kỳ uyển chuyển trong việc sáng tạo các hình thức phù hợp nhằm thể hiện những cảm giác và ý tưởng. Tao nhã, sâu sắc và u buồn, tâm hồn ông tự bộc bạch trong thơ, dịu dàng nhưng không ủy mị, lối phân tích buồn thảm gieo vào lòng độc giả một sự thông cảm u hoài.
Với sức lôi cuốn của cách diễn đạt tao nhã, bằng nghệ thuật tuyệt vời, Sully Prudhomme trở thành một trong những nhà thơ lớn nhất thời đại chúng ta. Một số bài thơ của ông là những viên ngọc bất hủ. Viện Hàn lâm Thụy Điển ít bị lôi cuốn bởi những bài thơ mang tính giáo dục và trừu tượng mà bị lôi cuốn nhiều hơn bởi những tác phẩm nhỏ mang chất trữ tình, những tác phẩm tràn đầy cảm xúc và chiêm nghiệm, những tác phẩm lôi cuốn người đọc bởi sự tao nhã, bởi chân giá trị của chúng và bởi sự kết hợp hiếm có giữa sự phản ánh tinh tế và tình cảm dồi dào.
Để kết luận, cần thiết phải nhấn mạnh một đặc điểm. Tác phẩm của Sully Prudhomme đã bộc lộ một óc luôn quan sát và tìm tòi không bao giờ ngơi nghỉ, một bộ óc đã tìm ra được – dường như đối với ông đó là giới hạn – rằng vận mệnh siêu nhiên của con người nằm ngay ở trong thế giới đạo đức, trong tiếng nói của lương tâm và trong mệnh lệnh cao quý và không thể chối từ của tinh thần trách nhiệm. Với quan điểm như vậy, Sully Prudhomme đã thể hiện tốt hơn hầu hết các tác giả khác những gì mà tác giả bản di chúc gọi là “khuynh hướng tinh thần trong văn học”. Do đó, Viện Hàn lâm tin tưởng rằng mình đã hành động đúng theo tinh thần mà Nobel mong muốn, khi quyết định chọn Sully Prudhomme trong số rất nhiều nhà hoạt động văn học lừng lẫy để trao giải thưởng đầu tiên này.
Sully Prudhomme đã đồng ý nhận giải, nhưng thật không may, ông bị ốm nên không thể đến dự với chúng ta hôm nay. Vì lý do đó, tôi rất lấy làm vinh hạnh mời ngài Công sứ Pháp lên nhận phần thưởng và nhân danh Viện Hàn lâm Thụy Điển trao lại cho cho ông.
Thanh Loan dịch
Ngô Tự Lập hiệu đính
à Culture Globe
III
Tác phẩm
Gửi những nhà thơ tương lai
Hỡi thi sĩ đời sau, các anh có thêm bao kiến thức
Và sẽ viết bằng chất giọng đậm đà thêm
Sẽ mang đi xa hơn ngọn đuốc thơ ca nồng thắm
Vươn tới đích tận cùng, tới nguyên lý đầu tiên.
Khi thơ các anh hiến dâng cho mọi nghĩ suy kỳ vĩ
Thì chúng tôi đã yên nghỉ từ lâu dưới huyệt mộ rồi
Chẳng còn lại gì ngoài những mảnh tàn phai nguội lạnh
Từ làn môi đã khép yên, từ tác phẩm đã chôn vùi.
Nhưng hãy nghĩ về chúng tôi, từng ca ngợi tình yêu hoa cỏ
Trong thế kỷ tối tăm, đầy súng ống, giáo gươm,
Bao tiếng động chết người làm câm nín mọi tấm lòng cả nghĩ.
Hãy thương những bài ca từng run lên bao âu lo, báo động
Khi các anh sẽ đến thời được hạnh phúc hơn,
được thấu hiểu nhiều hơn
Để sẽ được viết lên những điều cao cả hơn
trong những bài thơ không còn nước mắt.
Bằng Việt dịch
Ở cõi tục này
Ở cõi tục này, hoa tử đinh hương không sống được,
Tiếng hót loài chim cứ cụt ngủn, ngắn dần.
Tôi cứ mơ mùa hè kéo dài ấm áp
Bao lâu cũng vẫn còn…
Ở cõi tục này, từng đôi môi vô vị lướt qua nhau
Cái hôn chẳng để lại vẻ dịu ngọt nào như nhung óng nuột,
Tôi cứ mơ những chiếc hôn đầy tràn hạnh phúc
Bao lâu cũng vẫn còn…
Ở cõi tục này, con người luôn luôn phải khóc than
Vì tình bạn không bền, vì tình yêu chóng nhạt,
Tôi cứ mơ những lứa đôi bền chặt
Bao lâu cũng vẫn còn…
Bằng Việt dịch
Giống nhau
Nếu em muốn biết được vì sao anh
Lại yêu em chân thành, tha thiết vậy?
Em yêu ạ, anh yêu em là bởi
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
Ánh mắt em đầy hi vọng nhưng buồn
Tỏa ánh sáng chói ngời như tia chớp
Trong lòng em ngập tràn bao mơ ước
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
Thân hình em kỳ diệu và mong manh
Như người đẹp thành Troy thuở trước
Vẻ lộng lẫy trên tóc mây, trên ngực
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
Tình yêu chân thành, tha thiết cháy lên
Mỗi giây phút lời “yêu em” anh nói,
Nhưng em bước đi, không thèm ngoái lại
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
Nguyễn Viết Thắng dịch
Giọt sương
Ta nhìn thấy, rất buồn bã trong mơ
Những giọt sương lấp lánh trên đồng cỏ
Bàn tay lạnh của đêm đen đã thả
Những giọt sương lên những cánh hoa.
Những giọt sương rơi xuống từ đâu vậy?
Không mây mù, nơi ấy chẳng hề mưa.
Thì ra trước khi lấp lánh trên hoa
Trong không khí sương đã từng run rẩy.
Những giọt lệ từ đâu trong đôi mắt?
Giữa trời xanh không một dấu vết buồn.
Thì ra trước khi ánh lên trong mắt
Dòng lệ đã từng ấp ủ trong tim.
Đời vẫn thế, bóng giấu mình trong ngực
Nước mắt mơ màng, run rẩy trong tim.
Và ngay cả những ngày vui, hạnh phúc
Những giọt lệ buồn vẫn cứ trào dâng.
Nguyễn Viết Thắng dịch
Những ánh mắt
Ánh mắt huyền xanh đẹp lạ lùng
Tia nhìn ưng ửng ánh vừng đông
Sầu trong huyệt mộ nằm say ngủ
Rạng rỡ ngoài kia rực ánh hồng.
Đêm dài tươi mát dịu ngày qua
Đắm đuối nhìn nhau mãi thiết tha
Lấp lánh khung trời sao sáng tỏ
Mắt nhung đen láy phủ đêm ngà.
Mắt chẳng nhìn nhau phải thế không?
Không, không… đâu thể xót xa lòng
Mắt ai khao khát phương nào đó
Tận cõi vô hình mãi ngóng trông.
Như những vì sao lặn giữa đêm
Biệt ly… vẫn ở với trời êm
Đôi tròng mắt khép lim dim ngủ
Nhưng chẳng bao giờ chết lặng im.
Ánh mắt huyền xanh đẹp dáng hồng
Bình minh vô tận vẫn hoài mong
Nồng say giấc ngủ trong mồ tối
Mắt nhắm nhưng mà vẫn ngóng trông.
Vương Ngọc Long phỏng dịch
Hora Prima(1)
Tôi chào đón ngày khi còn chưa thức dậy
Bằng ánh sáng của mình ngày chạm đến thế kỷ tôi
Nhưng tôi chưa nhận ra sự tiếp xúc như vậy
Khi ngày nhìn hồn tôi xuyên qua giấc mơ đời.
Tôi nằm im trên giường, không cử động
Như pho tượng đá trên những nấm mồ
Trong đầu tôi những nghĩ suy rất sáng
Tràn ngập ánh mặt trời, tôi không mở mắt ra.
Tôi cảm thấy như trong ánh bình minh
Chào vầng dương, dàn đồng ca đang hát
Và trong tim tôi có tiếng hót của chim
Không thấy hoa, chỉ mùi hương ngào ngạt.
Ngoài thực tại, ngoài những điều lo lắng
Của cuộc đời, tôi cảm thấy như là
Rất ngọt ngào, tất cả niềm vui sướng
Không ngủ mà đang sống, tựa trong mơ.
Nguyễn Viết Thắng dịch
Chiếc bình vỡ
Mã tiên thảo trong bình khô héo
Bình đựng hoa, quạt chạm rạn rồi.
Quạt chỉ chạm nhẹ nhàng chút xíu
Chẳng nghe gì dù rất nhỏ thôi.
Nhưng vết rạn dù rằng rất nhỏ
Ngày lại ngày nó gặm thủy tinh
Gặm đích thực tuy không thấy rõ
Nhưng lâu ngày bình rạn nứt quanh.
Nước trong bình biến đi từng giọt
Nhựa nuôi hoa cứ cạn khô dần
Ai đâu ngờ sự tình chua xót
Chớ đụng vào kẻo nó vỡ tan.
Thường vậy, bàn tay người yêu dấu
Chạm con tim làm nó héo hon
Rồi tim lại tự mình rạn vỡ
Khiến đóa hoa ân ái không còn.
Ai nấy tưởng con tim nguyên vẹn
Vết thương tim tuy nhỏ nhưng sâu
Nó lớn dần và luôn khóc lén
Tim vỡ tan, xin chớ đụng vào.
Phạm Vũ Toản dịch
Phụ lục:
Để tham khảo, chúng tôi xin giới thiệu thêm bài thơ nổi tiếng Vết thương lòng của Lan Sơn (1912-1974) trong phong trào Thơ Mới của Việt Nam, vốn được nhà thơ phỏng theo bài Le vase brisé (Chiếc bình vỡ) trên đây của S. Prudhomme.
Vết thương lòng
Nắng sớm, em ngồi tỉa thủy tiên,
Hồn em say đắm cảnh thiên nhiên,
Bóng ai thấp thoáng ngoài hiên vắng,
Em đã vô tình vội ngẩng lên.
Em vội ngừng tay, vội ngó ra,
Dao cầm sẩy chạm tới giò hoa;
Giò hoa ngày lụi, màng hoa úa,
Hoa đã vì em chịu xót xa.
Rễ tuy trong trắng, lá xanh tươi,
Mầm, nhánh đều xinh, đẹp mấy mươi!
Nếu chẳng vì em hoa phải lụi,
Trời xuân sao chẳng nhởn nhơ cười!
Nhởn nhơ cười với cảnh xuân sang,
Với cả bao nhiêu khách rộn đường.
Cùng với muôn hoa đua sắc thắm,
Vì ai? đành chịu kém mùi hương!
Mùi hương đã kém, sắc rồi phai,
Rồi cũng cùng ai, cũng với ai,
Cùng chịu vì em chung số phận,
Cùng nhau chất đống để hiên ngoài.
Tim anh chung phận với hoa nầy,
Cũng bởi vì em đã sẩy tay,
Đã vội mải trông bao cảnh đẹp,
Vết thương mang nặng vẫn còn đây.
Còn đây năm cũ vết thương lòng,
Ghi lấy tình em chẳng thủy chung,
Một phút lòng em mơ bạn mới,
Yêu anh sau nữa cũng bằng không!
Lan Sơn
Harold Pinter
(10/10/1930 – )
Nhà thơ, nhà viết kịch Anh
Giải Nobel Văn học 2005
Harold Pinter là nhà viết kịch tiêu biểu nhất của nước Anh hiện còn sống, người “mở ra những vực thẳm được che đậy sau những câu chuyện ba hoa, trống rỗng thường ngày và thâm nhập vào những không gian biệt lập của sự áp bức”, mang lại khái niệm văn học “Phong cách Pinter” (Pinteresque) đặc thù. Đồng thời, ông là nhà thơ dấn thân vào chính trị, nổi tiếng với những quan điểm thiên tả, phản đối chiến tranh.
“Không có những tách biệt rạch ròi giữa cái thực và cái không thực,
cũng như giữa cái đúng và cái sai.
Một sự vật không nhất thiết phải một là đúng hai là sai,
mà có thể vừa đúng vừa sai.”
Harold Pinter
Harold Pinter
I. Tiểu sử
II. Lời tuyên dương và diễn từ Nobel
– Lời tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển
Nguyệt Cầm dịch
Phạm Xuân Nguyên hiệu đính
– Diễn từ Nobel: Nghệ thuật, Sự thật và Chính trị
Trịnh Lữ dịch
III. Tác phẩm
– Thơ
Hoàng Hưng dịch
– Hồn Ma
Hoàng Hưng dịch
– Thượng đế
Hoàng Hưng dịch
– Tặng vợ
Hoàng Hưng dịch
– Thần chết có thể đang già đi
Hoàng Hưng dịch
– Các tế bào ung thư
Hoàng Hưng dịch
– Bóng bầu dục
Hoàng Hưng dịch
– Tử
Diễm Châu dịch
– Cầu Chúa phù hộ Hoa Kỳ
Diễm Châu dịch
Mục lục
Lời người biên soạn 5
1. Sully Prudhomme
Tiểu sử 11
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 13
Tác phẩm 16
2.Frédéric Mistral
Tiểu sử 25
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 27
Tác phẩm 33
3. Giosuè Carducci
Tiểu sử 41
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 43
Tác phẩm 52
4. Rudyard Kipling
Tiểu sử 57
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 61
Tác phẩm 71
5. Maurice Maeterlinck
Tiểu sử 81
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 85
Tác phẩm 96
6. Rabindranath Tagore
Tiểu sử 105
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 110
Tác phẩm 132
7. William Butler Yeats
Tiểu sử 171
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 175
Tác phẩm 185
8. Erik Arlfeldt
Tiểu sử 195
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 197
Tác phẩm 202
9. Ivan Bunin
Tiểu sử 211
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 215
Tác phẩm 221
10. Gabriela Mistral
Tiểu sử 241
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 243
Tác phẩm 248
11. Hermann Hesse
Tiểu sử 265
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 269
Tác phẩm 275
12. Thomas Stearns Eliot
Tiểu sử 281
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 284
Tác phẩm 292
13. Par Fabian Lagerkvist
Tiểu sử 317
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 320
Tác phẩm 324
14. Juan Ramón Jiménez
Tiểu sử 335
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 338
Tác phẩm 345
15. Boris Pasternak
Tiểu sử 355
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 358
Tác phẩm 360
16. Salvatore Quasimodo
Tiểu sử 385
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 388
Tác phẩm 403
17. Saint-John Perse
Tiểu sử 411
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 413
Tác phẩm 417
18. Giorgos Seferis
Tiểu sử 437
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 439
Tác phẩm 458
19. Nelly Sachs
Tiểu sử 467
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 469
Tác phẩm 475
20. Pablo Neruda
Tiểu sử 483
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 487
Tác phẩm 502
21. Eugenio Montale
Tiểu sử 545
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 547
Tác phẩm 561
22. Vicente Aleixandre
Tiểu sử 571
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 573
Tác phẩm 583
23. Czeslaw Milosz
Tiểu sử 591
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 595
Tác phẩm 613
24. Jaroslav Seifert
Tiểu sử 635
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 638
Tác phẩm 659
25. Wole Soyinka
Tiểu sử 695
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 698
Tác phẩm 728
26. Joseph Brodsky
Tiểu sử 735
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 739
Tác phẩm 756
27. Octavio Paz
Tiểu sử 791
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 795
Tác phẩm 805
28. Derek Walcott
Tiểu sử 821
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 824
Tác phẩm 848
29. Seamus Heaney
Tiểu sử 861
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 864
Tác phẩm 887
30. Wislawa Szymborska
Tiểu sử 905
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 908
Tác phẩm 918
31. Harold Pinter
Tiểu sử 941
Lời Tuyên dương và Diễn từ Nobel 945
Tác phẩm 962
Phụ lục 969
CĐQ (Theo Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây