ạc Ngôn
Báu Vật Của Đời
Chương 4
1
Trận tuyết đầu tiên của những năm hòa bình đã che lấp những xác chết. Những con bồ câu đói đi lại vụng về trên tuyết, tiếng kêu buồn bã của chúng chẳng khác tiếng núc nở của người đàn bà góa. Buổi sáng có tuyết, bầu trời trong suốt như nhìn qua lớp băng, trông vừa cao nhã vừa mới mẻ. Phương đông đỏ rục, mặt trời lên, bầu trời như ngọc lưu ly cao vạn trượng. Tuyết phủ kín mặt đất. Người ra khỏi nhà, hơi thở ra màu phấn hồng, đi trên tuyết lạo xạo, tay dắt bò dê, lưng địu hàng hóa, men theo cánh đồng phía đông của thôn đi về hướng nam, vượt con sông Mục đầy cua ốc và ếch nhái, đến khoảnh đất cao không có tên rộng chừng năm mươi mẫu để họp chợ, phiên chợ kỳ lạ của vùng Cao Mật: Chợ Tuyết, chợ họp trên tuyết, giao dịch mua bán trên tuyết và cử hành những lễ nghi trên tuyết. Đây là một nghi thức im lặng tuyệt đối, bất kể tình huống nào cũng không được nói, mở miệng nói là chuốc lấy tai họa. ở chợ tuyết, mọi người chỉ được nhìn thấy, được ngủi, được sờ mó, cảm thụ bằng trái tim, mà không được phép nói thành lời. Còn như nếu lỡ miệng nói một câu thì hậu quả như thế nào? Không ai hỏi, cũng không ai giải thích, làm như ai cũng biết, ai cũng hiểu, có điều không nói ra miệng đấy thôi.
Những người Cao Mật còn sống sót, phần lớn là phụ nữ và trẻ con, đều mặc quần áo ngày tết, lội tuyết đến chợ. Mùi tuyết lạnh xộc vào mũi như kim châm, phụ nữ đều lấy tay áo rộng che mũi và miệng, tuồng như để che hơi lạnh của tuyết, nhưng tôi thì cho rằng để không cho lời buột ra khỏi miệng. Trên đồng tuyết mênh mông chỉ có tiếng lạo xạo, người không nói nhưng súc vật thì không ai cấm đoán. Dê be be, bò ẩm bò, những con lừa ngựa sống sót sau chiến tranh hí hí, Những con chó điên cào bới xác chết, ngửa nhìn mặt trời tru lên như chó sói.
Trong thôn chỉ còn mỗi con chó mù của lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ là không điên, chệnh choạng đi theo chủ. Trên khu đất cao có một ngọn tháp xây bằng gạch xanh, phía trước có ngôi nhà tranh ba gian, người chủ ngôi nhà là Môn Thánh Vũ, năm nay một trăm hai mươi tuổi. Ông cụ luyện phép tịch cốc, không ăn lương thực đã hai mươi năm nay. Người gầy như con ve sầu, ông cụ chỉ sống bằng những hạt sương. Sau này đi học, được biết con ve sống bằng nhựa cây, tôi suy ra rằng ông cụ không thể sống bằng những hạt suông. Một mình sống trên đồi cao, trước mặt là hàng vạn mẫu hoa màu, sau lưng là dòng sông đầy tôm cá và cái đầm mùa xuân và mùa hạ có bao nhiêu trứng chim, ông cụ thích ăn cái gì thì ăn. Nghiên cứu sự thần kỳ đã biến thành trần tục như thế nào thì có ý nghĩa gì? Thêm một ông thánh không ăn lương thực thì có gì xấu? Chiến tranh đã làm tổn thương ghê gớm trí tưởng tượng của người dân Cao Mật. Giờ đây đã hòa bình, là lúc nên khôi phục lại trí tưởng tượng đó. Nhóm lại Chợ Tuyết là một việc được mọi người hoan nghênh.
Trong con mắt người dân, lão đạo sĩ là một cao sĩ nửa người nửa tiên. Hành tung bí ẩn, bước đi nhẹ nhàng, đầu trọc như bóng đèn, chòm râu bạc rậm như bụi tơ hồng, đôi môi dày như môi la con mới đẻ, răng có màu như mặt trong của vỏ sò, mặt đỏ mũi đỏ, lông mày trắng và dài như cánh chim, mỗi năm đạo sĩ xuống thôn một lần, vào ngày đông chí. Cụ có một nhiệm vụ đặc biệt: Chọn Công tử Tuyết cho phiên chợ Tuyết, mỗi năm họp một lần. Nói được chọn là Công tử Tuyết có một chức trách thiêng liêng và được thù lao vật chất, vì vậy thôn dân ai cũng mong con trai mình được chọn. Công tử Tuyết năm nay là tôi, Thượng Quan Kim Đồng. Lão đạo sĩ đi khắp mười tám thôn vùng Cao Mật, cuối cùng chọn tôi. Điều này chứng tỏ tôi không giống mọi người. Mẹ tôi khóc vì sung sướng! Đôi khi ra phố, đám phụ nữ nhìn tôi bằng con mắt kính nể. Họ ngọt ngào hỏi:
– Công tử Tuyết ơi, khi nào thì có tuyết?
– Tôi cũng không rõ, không biết khi nào thì tuyết rơi!
– Công tử Tuyết mà không biết khi nào thì có tuyết?
– Hừm, không thể tiết lộ thiên cơ!
Mọi người mong có tuyết, riêng tôi lại càng mong. Chiều tối hôm trước mây hồng dầy đặc, chiều hôm qua tuyết bắt đầu rơi, lúc đầu nhỏ, về sau thì to, như những chiếc lông ngỗng, như những quả cầu nhưng. Tuyết bay đầy trời, che lấp tất cả. Vì có tuyết nên trời tối rất sớm. Cáo kêu ngoài đầm, những oan hồn đi vật vờ trên đường to ngõ hẻm, kêu khóc ầm ĩ. Tuyết rơi trên cửa sổ hồ giấy. Những đã thú trắng toát ngồi chục dưới bậu cửa, cái đuôi to tướng quật vào khung cửa bồm bộp. Đêm hôm ấy bụng tôi cứ phấp phỏng không yên, tôi trông thấy nhiều cảnh tượng kỳ lạ không hiểu thực hư ra sao. Nói ra thì thấy nó thường quá, chẳng thà không nói là hơn.
Trời chưa sáng hẳn mẹ đã đun nước cho tôi rửa mặt, rửa tay. Mẹ rửa rất kỹ hai bàn tay tôi, nói rằng rửa sạch tay cho con cún của mẹ. Mẹ còn lấy kéo sửa móng tay cho tôi. Cuối cùng, in vân tay màu đỏ lên trán tôi như cái nhãn hàng hóa. Mẹ mở cổng, thấy lão đạo sĩ đang đứng đợi. Cụ đem đến một chiếc áo dài màu trắng, một chiếc mũ màu trắng, đều may bằng lụa trơn bóng, sờ mát tay. Cụ còn đem cho tôi một chiếc phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Cụ đích thân mặc quần áo cho tôi, bảo tôi đi vài bước trong sân
– Thiện tai – Cụ nói – Thế mới là Công tử Tuyết đích thực!
Tôi rất vênh váo, mẹ và chị Cả cũng rất vui. Sa Tảo Hoa nhìn tôi bằng con mắt ngưỡng mộ. Chị Tám nở một nụ cười mê hồn. Tư Mã Lương cười nhạt.
Hai người đàn ông khiêng chiếc kiệu bên trái vẽ rồng, bên phải vẽ phượng đến kiệu tôi đi. Người đi trước là phu kiệu chuyên nghiệp Vương Thái Bình, người đi sau là anh trai Vương Công Bình. Hai anh em đều có tật nói lắp. Mấy năm trước, để trốn quân dịch, Vương Thái Bình chặt đứt ngón tay trỏ, Vương Công Bình lấy bã đậu bôi vào dái, giả vờ bị bệnh sa dì. Trò bịp bị bóc trần, chủ nhiệm thôn Đỗ Bảo Thuyền chĩa súng trường vào mặt, cho hai anh em chọn lấy một trong hai con đường: một là bị xử bắn, hai là làm dân công thường trực, ra mặt trận cáng thương, vận tải đạn được. Hai người lắp bắp, không bao giờ nói được một câu hoàn chỉnh. Ông bố là Vương Đại Hải bị thọt chân vì ngã thang khi xây dựng nhà thờ, chọn giúp hai con trai con đường thứ hai. Phu kiệu chuyên nghiệp mà cáng thương thì còn phải nói, êm và nhanh, ai cũng ca ngợi. Hai anh em đều lập công. Khi phục viên, đoàn trưởng đoàn cứu thương Lục Thiên Lý tự tay viết giấy chúng nhận công lao của hai anh em. Cùng đi dân công với anh em Vương Thái Bình, có em trai của Đỗ Bảo Thuyền là Đỗ Kim Thuyền bị bạo bệnh mà chết. Hai anh em không quản đường xa ngàn dặm, khiêng thi thể Đỗ Kim Thuyền về quê, dọc đường trải qua bao gian khổ mới về tới nhà Đỗ Bảo Thuyền. Hai anh em vì nói lắp nên không nói rõ được đầu đuôi câu chuyện, mỗi người ăn hai cái tát của Đỗ Bảo Thuyền. Đỗ Bảo Thuyền cho rằng hai anh em mưu sát Đỗ Kim Thuyền. Hai anh em chìa giấy xác nhận của đoàn trưởng ra, Đỗ Bảo Thuyền giật lấy xé tan ra từng mảnh, khoát tay:
– Đào ngũ thì lúc nào cũng là đào ngũ!
Hai anh em oan ức quá mà không thể nói cho người khác hiểu nỗi khổ tâm của mình. Đôi vai được rèn luyện rắn như thép, chân bước rất có bài bản, ngồi trên cáng của họ êm như ngồi trên con thuyền trôi xuôi dòng nước. Cánh đồng tuyết trắng vang lên tiếng chó sủa xen kẽ tiếng thanh la.
Trên sông Mục cũng có một cây cầu đá, dầm cầu bằng gỗ thông. Chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Trường Anh đang đứng trên cầu. Chị ta để tóc ngắn, cặp tóc dính con bướm nhựa, môi cong hở lợi màu tím. Chị ta có khuôn mặt thô như đẽo bằng rìu, cằm có râu. Chị ta nhìn tôi bằng ánh mắt nóng bỏng. Tôi biết chị đang ở góa, chồng chị bị xe tăng nghiền nát. Cây cầu rung rinh, những phiến đá lát cầu chạm vào nhau lạch cạch. Tôi qua cầu, ngoảnh lại nhìn, thấy từng hàng dọc dấu chân trên cánh đồng tuyết. Rất nhiều người vẫn cố đi về phía bên này. Tôi trông thấy mẹ và chị Cả cùng lũ trẻ nhà tôi, và cả con dê nữa. Mẹ không quên che bầu vú cho nó. Quên thì nó sẽ khổ. Tuyết dầy lút gối, chắc chắn bầu vú nó lết trên tuyết. Từ nhà tôi đến chợ Tuyết gần mười dặm, nó chịu sao nổi?
Anh em phu kiệu khênh kiệu lên đồi. Những người đến sớm mắt sáng lên chào đón tôi. Đàn ông, đàn bà, trẻ con mím chặt miệng để không nói, người lớn tỏ vẻ trang nghiêm, trẻ con nhăn nhó như khỉ.
Dưới sự hướng dẫn của lão đạo sĩ, họ khiêng tôi đến chỗ bệ đất hình vuông ở chính giữa cao điểm, trên bệ kê hai chiếc ghế băng, phía trước hai ghế băng là một cái lư trong có ba thẻ hương. Họ gác đòn kiệu lên ghế, tôi vẫn ngồi trong tư thế lơ lửng dưới đòn kiệu. Cái rét lặng lẽ cắn các ngón chân tôi như mèo đen, cắn tai tôi như mèo trắng. Hương cháy phát ra những tiếng động mơ hồ nghe như tiếng giun, từng đám tàn rơi xuống như nhà bi cháy sập. Khói hương chui vào lỗ mũi trái, chui ra lô mũi phải. Phía dưới bệ có chiếc lò đốt vàng mã, lão đạo sĩ đang đốt một thếp tiền giấy, ngọn lửa như những con bướm vàng, tàn giấy như những con bướm đen nhẹ nhàng bay lên, bay mệt thì rơi xuống tuyết và chết. Lão đạo sĩ cúi lạy trước đàn rồi đưa mắt ra hiệu cho hai người phu kiệu. Họ khiêng tôi lên, lão đạo sĩ trao cho tôi một cái gậy bọc giấy trang kim, đầu gậy treo chiếc bát bằng thiếc. Đây là quyền trượng của công tử Tuyết. Tôi vung cây gậy này là có tuyết rơi hay sao? Chỉ định tôi là Công tử Tuyết xong, lão đạo sĩ giới thiệu với tôi về người đã sáng lập ra chợ Tuyết. Đó là lão đạo sĩ Trần, sư phụ của lão đạo sĩ. Theo chỉ thị của Thái Thượng Lão Quân, lão đạo sĩ Trần sáng lập ra Chợ Tuyết, công đức viên mãn rồi, cụ hóa thành tiên, cư ngụ trên ngọn núi chọc trời, ăn quả thông, uống nước suối, từ cây tùng bay sang cây bách, từ cây bách bay vào trong động. Lão đạo sĩ giảng giải cặn kẽ cho tôi về nhiệm vụ của Công tử Tuyết. Bước thứ nhất là lập đàn thụ phong, việc này vừa làm xong; bước thứ hai là tuần du trong chợ, bước này đang tiến hành.
Đây là giờ phút oai vệ nhất của Công tử Tuyết, mười mấy tiểu hiệu mặc quần áo xanh đỏ, trong tay không cầm vật gì, nhưng giữ tay ở tư thế cầm loa, kèn, trống, thanh la, phùng mang trợn mắt như đang tấu nhạc, tay trái giơ cao ngang tầm vai, tay phải giơ chiếc dùi tưởng tượng, cứ ba bước lại gõ một tiếng y như thật. Anh em họ Vương chân như lò xo, mỗi bước lại nhún nhảy. Những người đi chợ tạm ngùng công việc giao dịch thầm lặng, trố mắt mà ngắm Công tử Tuyết. Những khuôn mặt quen và những khuôn mặt không quen trên nền tuyết trắng, đỏ như táo chín, đen như than củi, vàng như sáp ong, xanh như lá rau. Tôi khua quyền trượng trước mặt mọi người. Họ có vẻ hốt hoảng, giơ tay lên như để che chắn, miệng há to như chực kêu lên, nhưng không một ai dám kêu lên một tiếng. Một trong những nhiệm vụ thiêng liêng mà lão đạo sĩ yêu cầu ở tôi là, nêu có kẻ nào dám kêu lên một tiếng thì dùng cái bát bằng thiếc treo ở đầu quyền trượng úp vào miệng hoặc vào cằm của kẻ vi phạm bẩy ra một cái là người đó đứt lưỡi.
Tôi nhìn thấy mẹ, chị Cả, chị Tám, Sa Tảo Hoa, Tư Mã Lương trong đám đông câm lặng. Con dê của tôi không chỉ đeo nịt vú mà còn đeo khẩu trang hình chóp nón chụp kín cả miệng của nó, có hai dây bằng vải buộc lên sau tai. Những người nhà của Công tử Tuyết tuân thủ lệnh cấm nói đã đành, ngay cả con dê cũng im hơi lặng tiếng như người. Tôi huơ gậy về phía những người thân của tôi, họ cũng giơ tay lên chào lại. Thằng quỉ Tư Mã Lương khum bàn tay làm thành ống nhòm, nhìn về phía tôi. Sa Tảo Hoa mặt mũi tươi tắn như con cá biển vừa lên khỏi mặt nước.
Hàng hóa trong Chợ Tuyết có đủ các loại, chia theo nhóm hàng. Theo sự hướng dẫn ngầm của đội nghi trượng, tôi bước vào gian hàng giày dép. Gian này toàn là dép bện bằng cỏ bồ, nhân dân vùng Cao Mật đi giày này suốt mùa đông. Ông Hoàng Thiên Quí có năm con trai thì bốn người bị xử bắn, một người bị khổ sai. Lão chống cây gậy bằng cành liễu, râu bám đầy tuyết, trùm đầu bằng vuông vải trắng, chiếc bao tải rách khoác trên người. Lão cúi xuống giơ hai ngón tay để mặc cả với chủ quầy Cầu Hoàng Tản một đôi dép cỏ bồ. Lão Cầu giơ ba ngón tay đè hai ngón tay của lão Quí. Lão Quí khăng khăng giữ ý, lật hai ngón tay lên đè trên ba ngón tay của lão Cầu, lão Cầu lại lật ba ngón tay đè lên hai ngón tay của lão Quí. Bốn năm lần như vậy, lão Cầu tỏ vẻ bất lực, chọn trong xâu dép lấy ra một đôi đã mốc xanh. Hoàng Thiên Quí nghiến răng lại để biểu thị sự tức giận. Lão vỗ ngực chỉ lên trời, chỉ xuống đất, không hiểu nghĩa là gì hoặc không có nghĩa gì cả. Lão giơ gậy chỉ vào một đôi thật tốt, bện bằng phần gốc cỏ bồ. Lão Cầu gạt chiếc gậy của lão Quí, giơ bốn ngón tay kiên quyết đòi đúng giá. Lão Quí chỉ trời, vạch đất, lộn trái chiếc túi gai đeo bên mình. Lão cúi xuống tháo lấy đôi dép mà lão ưng ý, tụt chân khỏi đôi giày da há mõm, rồi lập cập xỏ chân vào dép. Sau đó, lão moi trong chiếc túi may thêm vào quần lấy ra một tờ giấy bạc nhàu nát ném xuống trước mặt lão Cầu. Lão Cầu mặt giận bừng bừng, chửi nhưng không dám chửi thành tiếng, chỉ giẫm bành bạch. Nhưng rồi lão cũng nhặt tờ giấy bạc lên, vuốt mép cho phẳng giơ cho mọi người xem. Những người xung quanh, kẻ đồng tình thì lắc đầu, kẻ hồ đồ thì cười mỉm. Lão Quí chống gậy đi ra, bước chân lệt sệt, chỉ cách nhau một tấc, hai chân lão cứng đờ như que củi. Tôi không có cảm tình với lão Cầu. Lão ta đã nói là miệng cứ như tép nhảy. Tôi thầm mong lão trong cơn tức giận buột miệng nói thành lời là tôi dùng cái bát thiếc kẹp lưỡi lão. Nhưng lão rất tinh, hình như đoán ra ý đồ của tôi. Lão nhét tờ giấy bạc vào chiếc dép rõ ràng là đã chuẩn bị từ trước, treo ở đầu đòn gánh. Hắn lấy cả đôi dép xuống, chỉ tay vào từng người thợ bện dép xung quanh đang trố mắt ra nhìn tôi, rồi lại chỉ vào những đồng tiền lẻ trong dép, rồi bằng một thái độ cung kính, lão lẳng đôi dép về phía tôi. Đôi dép rơi trúng bụng, lăn xuống chân tôi, mấy tờ giấy bạc lẻ văng ra, trên mỗi tờ đều có những con cừu béo tốt, đứng ngơ ngẩn như đang đợi cắt lông hoặc đem giết thịt. Tiếp tục tiến lên, lại có mấy đôi dép ném tới, trong dép có tiền lẻ.
Đến gian hàng bán cơm, người vợ góa của Triệu Giáp là Phương Mai Hoa đang rán bột mì trong một cái chảo đáy bằng. Hai đứa con của chị ta, một trai một gái ngồi trên chiếu, quấn quanh người bằng một chiếc chăn. Bốn con mắt mở thao láo. Bên cạnh bếp bày mấy chiếc bàn long chân, sáu người đàn ông bán chiếu đang ngồi ăn nhồm nhoàm. Bánh bột mì hai mặt rán vàng, ăn với súp rau, cắn một miếng bánh lại húp một miếng súp. Súp nóng, những người đàn ông miệng nhờn mỡ. Những gian hàng bên cạnh không có khách, chủ hàng đứng suông, gõ xoong nồi cho đõ buồn, nhìn sang gian hàng chị góa bằng ánh mắt ghen tỵ.
Khi chiếc cáng của tôi đi qua, chị góa Phương Mai dán đồng tiền vào chiếc bánh bao, nhẹ nhàng liệng về phía tôi. Tôi vội cúi đầu xuống, chiếc bánh rơi trúng ngực Vương Công Bình. Chị góa tỏ vẻ xin lỗi, lau tay bằng mảnh khăn đầy mỡ. Trên khuôn mặt tái xanh của chị là đôi mắt hõm sâu, xung quanh có quầng đen. Một người đàn ông cao và gầy đi tắt qua quầy bán gà, bước tới. Những con gà mái hoảng hốt kêu cục cục, bà bán gà nhìn ông ta gật đầu. Dáng đi của ông ta rất lạ, người thẳng đuỗn, cứ mỗi bước đi lại rướn lên một cái. Tôi nhận ra ông ta. Ông ta là Trương Thiên Tứ, môn đồ của đạo Hoạt nạn. Mọi người đặt cho ông ta cái biệt hiệu là Ông trời. Ông ta theo đuổi một nghề kỳ quặc: dẫn độ người chết về quê. Ông ta dùng tà thuật khiến người chết đi lại được. Vùng Cao Mật có rất nhiều người chết nơi đất khách quê người, nhờ ông ta dẫn về. Rất nhiều người nơi khác chết ở Cao Mật, nhờ ông ta dẫn về quê cũ của họ. Ai mà không kính nể một con người có khả năng dẫn người chết vượt trăm núi nghìn sông. Trên người ông ta lúc nào cũng phảng phất mùi tử khí. Những con chó dữ nhất trông thấy ông ta cũng cụp đuôi lỉnh mất. Ông ta ngồi xuống ghế băng trong gian hàng của chị góa, giơ hai ngón tay lên, chị góa cũng ra hiệu đáp lại, chị hiểu rằng ông ta định ăn hai mẻ năm mươi cái, chứ không phải hai hoặc hai mươi cái. Chị góa vội vàng chuẩn bị bánh bao cho ông ta vì ông thực khách to bụng này khiến chị mừng rơn, mắt sáng lên, còn những gian hàng bên cạnh thì mắt tối sầm. Tôi rất mong họ mở miệng, nhưng ghen tức mấy thì ghen tức, họ không chịu hé răng. Trương Thiên Tứ im lặng ngồi nhìn chị góa chuẩn bị, hai tay đặt trên đầu gối, một cái túi bằng vải đen lủng lẳng ở thắt lưng.
Không ai biết rằng, hồi cuối thu ông ta vừa có chuyện làm ăn lớn, dẫn độ một vong hồn khách thương Quan Đông làm nghề buôn bán tranh niên họa chết ở thôn Ngải Khưu vùng Cao Mật. Con trai người khách thương sau khi ngã giá với ông ta liền về trước để chuẩn bị. Đường đi trăm núi ngàn sông, ai cũng nghĩ ông ta không về được. Vậy mà ông ta đã trở về, xem ra thì mới về, cái túi vải kia chắc là túi tiền. Ông ta đi đôi giày cỏ rách tả tơi, để lộ những ngón chân sưng tấy bằng quả bí đỏ mới rụng rốn, gót chân to như khuỷu chân trâu. Em gái thằng Gật ôm một cây cải bẹ lớn đi ngang qua cáng, cặp mắt đa tình của cô ta liếc xéo tôi. Cánh tay ôm cây cái đỏ tía lên vì lạnh. Khi cô ta đi qua chỗ bếp của chị góa, tôi thấy tay chị góa run bắn. Kẻ thù gặp nhau. Nhưng cái thù giết chồng cũng không làm chị góa vi phạm qui ước của Chợ Tuyết, chị không nói thành lời nhưng tôi trông thấy máu đang sôi lên trong huyết quản chị. Căm thù nhưng không để lỡ chuyện kinh doanh, đó là cái giỏi của chị góa. Chị hốt trọn cả mẻ bánh vào cái liễn sứ, bê đến trước mặt Trương Thiên Tứ. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, chị góa hơi ngạc nhiên nhưng lập tức chị hiểu ra. Chị vỗ vỗ trán tự trách mình sơ ý. Chị dốc trong lọ lấy ra hai củ dưa hành vỏ tím đưa tận tay Trương Thiên Tứ và lấy cái bát nhỏ đổ đầy tương ớt coi như ưu đãi đặc biệt, đặt trước mặt Trương Thiên Tứ. Những người đàn ông bán chiếu bất mãn nhìn chị góa, lườm nguýt chị về thái độ ưu ái này. Trương Thiên Tứ thoải mái ngồi nhấm nháp một cách chậm rãi củ dưa hành, đợi bánh nguội. Ông ta kiên nhẫn tách từng nhánh hành, xếp chúng lên bàn ăn thành một hàng dọc theo thứ tự lớn nhỏ, thỉnh thoảng lại đổi vị trí của các nhánh cho phù hợp với trình tự đã định. Sau đó, lúc tôi đi sang gian hàng rau, từ xa tôi trông thấy Trương Thiên Tứ bắt đầu ăn bánh bao, ăn nhanh kinh khủng, không phải là ăn mà y như bỏ bánh vào chum!
Về chuyện Trương Thiên Tứ gọi hồn, đối với tôi, nó như một cái xương cá mắc trong họng, chừng nào chưa lấy ra thì tôi còn khó chịu. Đó là một buổi trưa gió rét căm căm, con trai của người khách thương Quan Đông thuê một cỗ xe ngựa và bốn người khỏe mạnh, chở thi thể bố anh ta từ thôn Ngải Khưu đến thôn tôi, hỏi thăm nhà Trương Thiên Tứ. Lúc đó, tôi cùng Tư Mã Lương đang chơi đùa trên phố. Tư Mã Lương dẫn đường cho họ. Ngôi nhà của Trương Thiên Tứ tọa lạc ở góc tây nam của thôn, tách hắn với những nhà khác. Tường vây rất cao, cổng đóng im ỉm, cánh cổng dán hai đạo bùa vẽ trên giấy vàng. Tư Mã Lương trỏ cái cổng cho con trai người khách thương rồi né sang một bên. Con trai người khách thương móc túi lấy ra một tờ giấy bạc nhét vào tay Tư Mã Lương rồi bước tới trước cổng, chần chừ một thoáng, cuối cùng cầm lấy cái vòng đập vào cánh cổng. Đập lần thứ hai, cánh cổng hé mở, ló ra khuôn mặt Trương Thiên Tứ bôi đầy chu sa.
– Đến rồi hả? – Ông ta hỏi.
Con trai người khách thương mặc chiếc áo dài cổ lông chồn, hất đầu về phía cỗ xe ngựa, không trả lời. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, nói:
– Đưa đây!
Con trai người khách thương lôi trong bọc ra một gói giấy, nói:
– Đây là tiền đặt cọc. Nếu ông đưa đến ngày mồng Bốn tháng Chạp thì tôi thưởng cho ông thêm một khoản nữa, khoản này là…
Trương Thiên Tứ nói:
– Không phải khoan kim cương thì khoan sao nổi vật rắn! Ông yên tâm đi, chuẩn bị ngày mồng Bốn tháng Chạp đón hỉ thần!
Con trai người khách thương nói:
– Nếu lỡ hẹn…
Trương Thiên Tứ nói:
– Lỡ hẹn thì tôi không lấy một xu.
Con trai người khách thương nói:
– Nếu như thiếu chân thiếu tay thì…
Trương Thiên Tứ nói:
– Thiếu gì trên người ông già thì cứ xẻo lấy trên người tôi mà bù vào?
Con trai người khách thương nói:
– Tôi vẫn cứ phấp phỏng thế nào ấy, từ đây đến quê tôi chí ít cũng nghìn dặm, trèo đèo vượt suối, qua sông qua đò…
Trương Thiên Tứ nói:
– Ông có gọi hồn hay không thì bảo? Không gọi nữa thì cuốn xéo! Đạo Hoạt nạn chúng tôi ba nghìn thầy trò, gọi hồn khắp cái đất nước Trung Quốc này chưa hề sai sót điều gì?
Con trai người khách thương nói:
– Xin ông đừng nóng, sao tôi lại không tin ông. Không tin ông thì tôi chở đến đây làm gì?
– Thôi được, thỏa thuận như vậy nhé, ngày mồng Bốn tháng Chạp tôi bày cơm rượu đón hỉ thần, anh em, khênh vào đi!
Bốn người đàn ông mặc áo chẽn, thận trọng chuyển cái xác sang một cái cáng tạm bợ. Xác chết to bằng con trâu, bụng bằng cái chum đựng nước, đầu hói quá nửa, trên mặt đậy tờ giấy vàng. Ông ta dễ nặng đến hai tạ, khi còn sống chắc là đi đứng khá vất vả, nay chết rồi thì làm sao vượt hàng nghìn dặm để về quê ở Quan Đông? Nhân tiện xin nói thêm, vùng đông bắc Cao Mật, kề một bên thôn lớn thuộc châu Bình Độ, đó là thôn Ngải Khưu. Bắt đầu từ đời Minh, họ sáng tác tranh niên họa vẽ trên giấy điệp, bán khắp ba tỉnh Quan Đông.
Hàng năm cứ vào đầu mùa đông, các lái tranh vùng đông bắc đều về đây trong khi đợi lấy hàng thì uống rượu chơi gái vì họ rất nhiều tiền. Thôi, không nói dông dài nữa. Cái xác của ông chủ thương nặng trĩu bên phải, hai người khiêng bên phải mồ hôi đầm đìa, hai người khiêng bên trái thì lại tương đối nhẹ nhàng. Đây chính là hiện tượng người chết nặng một bên. Bốn trai tráng khênh cáng vào trong cổng liền đặt xuống theo lệnh của Trương Thiên Tứ, đặt trên một chiếc chiếu cói đã chuẩn bị sẵn. Trương Thiên Tứ không lịch sự gì cả, nói luôn:
– Các vị ra ngay để tôi tiếp linh khí.
Con trai người khách thương còn định nói gì nữa, nhưng Trương Thiên Tứ đẩy tất cả ra ngoài cổng rồi đóng sập cổng lại. Bốn trai tráng như bị trúng tà khí, đứng ngây ra như phỗng. Con trai người khách thương rút tiền trả bốn người. Anh ta lại bước tới bên cổng ghé mắt nhìn vào trong. Không nhìn thấy gì, vì cổng nhà Trương Thiên Tứ không một kẽ hở. Lại áp tai vào cánh cổng nghe động tĩnh, nhưng bên trong im ắng như nghĩa địa. Tường vây xây bằng gạch cao hơn mái nhà, trên tường chăng dây thép gai, ngôi nhà của Trương Thiên Tứ khiến người ta kính nể, ngay cả Lỗ Lập Nhân và chị Phán Đệ khi phát động phong trào Bần Nông Đoàn cũng không dám vào nhà, mặc dù rất biết mức sinh hoạt của Trương Thiên Tứ hơn hẳn trung nông. Nhân vật bự thích nghịch nghiên mực từng tặng Bần Nông Đoàn một câu như sau: Đấu một trung nông hơn đập chết mười con thỏ đồng. Con trai người khách thương không biết làm thế nào, đành phải ra về cùng với bốn trai tráng. Mười mấy đứa trẻ chúng tôi nhìn những phù chú quái gở trên cánh cổng mà rợn tóc gáy, lặng lẽ rút lui. Không biết ai đã kêu lên: Ma đấy? Thế là chúng tôi co giò chạy, để đối phó với quỉ nhập tràng, chúng tôi chạy thẳng vào gốc cây cổ thụ, sắp chạm gốc thì rẽ đột ngột. Chạy ngay sau lưng tôi là Tư Mã Lương né không kịp, vêu cả môi lên khi dập vào gốc cây liễu.
Cái hôm Trương Thiên Tứ dẫn người chết ra đi, người trong thôn đã đến đợi sẵn ngoài cổng. Trời chưa sáng hẳn, vầng trăng tròn vành vạnh vẫn chưa lặn, chân trời phía đông lảng vảng mấy đám mây mỏng màu hồng, mặt trời chua mọc. Chúng tôi đứng im, cố nén cả tiếng hắt hơi. Không có gió, chỉ có hơi lạnh thấu quang, người khác thì tôi không rõ, riêng tôi run cầm cập. Phía đầm xa xa là màu kim nhũ. Mấy con ngỗng trời vươn cổ cong cong trên băng mỏng rúc mỏ vào trong cánh. Khói trắng cuồn cuộn trên ống khói nhà Trương Thiên Tứ, từng đám tàn giấy theo khói bay lên cao, một mùi lạ khiến người lộn mửa tỏa ra khắp nơi. Rồi lửa tắt, khói trắng cũng không bốc lên nữa, trong sân sáng mờ mờ, không một tiếng động, có thể nghe rõ tiếng đánh rắm của con ngỗng trời ngoài đầm. Cái mùi lạ càng đậm đặc khiến người ta phải lấy tay áo bịt mũi. Đợi rất lâu, cuối cùng cánh cổng mở ra, kẹt lên một tiếng như tiếng xé vải. Trương Thiên Tứ mình mặc áo chẽn màu đen, phía dưới mặc quần hẹp ống cũng màu đen, chân đi giày gai, đầu đội mũ dạ đen giống như cái nón, bước ra cổng. Ông ta khoác trên tay trái một chiếc làn, tay phải xách chiếc đèn lồng phết bằng giấy bồi. Trong đèn có ánh sáng leo lét ông ta đứng nghiêng bên cổng, nói nhỏ vào trong bằng một giọng cực kỳ nghiêm trang:
– Xin mời hỉ thần đi ra?
Dưới ánh trăng, cái xác chết to béo đứng trước bức tường ngăn làm bình phong, mặc chiếc áo dài đen rộng thùng thình không tay, cái đầu hói tròn xoay được quấn bằng một chiếc khăn đen, chụp lên khăn là một chiếc mũ cói. Phần dưới của áo choàng quét đất, do vậy không nhìn thấy chân. Các xác như một cây tháp biết đi. Chúng tôi không tin vào mắt mình. Cái xác cứng đơ nhưng rõ ràng là biết đi. Nó đi động theo ánh trăng, ra đến cổng thì dừng lại, thân hình to lớn chao đi một cái như sắp ngã. Nó có vẻ đầu nặng chân nhẹ, cái mùi rất gắt là từ trong áo choàng tỏa ra. Trương Thiên Tứ khóa cổng lại bằng một chiếc khóa to tướng bằng đồng. Ông ta đến trước mặt hỉ thần, ngồi xuống đốt một thếp tiền giấy. Chiếc áo dài của người chết phất phơ trong ánh lửa. Đốt vàng mã xong, Trương Thiên Tứ cúi lạy một lạy rồi đứng lên niệm thần chú. Niệm chú xong, ông ta đi trước, mặt xoay nghiêng, nói nhỏ: Hỉ thần, hỉ thần, xin hãy lên đường, trở về cố hương, chôn cùng tổ tiên. Con hiền cháu thảo, đêm ngày ngóng trông. Hỉ thần, hỉ thần, lên đường may mắn?. Đọc xong, ông ta rắc nắm tiền giấy rồi chậm rãi đi trước. ánh sáng leo lét của chiếc đèn lồng chấp chới như ma trơi. Cái xác hưởng ứng lời kêu gọi của Trương Thiên Tứ một cách miễn cưỡng, chậm rãi đi theo ông ta.
Cho phép tôi trở lại Chợ Tuyết. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, kiếm được một món tiền lớn trở về, Trương Thiên Tứ liền đi với cô hiếng trong tay ôm cây cải bẹ. Ông ta rửa sạch bụi đường trong ánh mắt tình tứ của cô ta. Nhiệm vụ tuần du Chợ Tuyết của tôi đã xong, dàn nhạc câm lại đưa tôi về trước cây tháp. Anh em họ Vương gác cáng vào chỗ cũ. Tôi cảm thấy hai chân tê dại, bàn chân buốt đến nỗi không dám chạm đất. Trong võng có mười mấy đôi giày cỏ và những tờ giấy bạc nhàu bẩn. Những tiền này là tiền dâng lên Công tử Tuyết, là của tôi vì đây là tiền thù lao cho tôi sắm vai Công tử Tuyết. Bây giờ nhớ lại, Chợ Tuyết đúng là ngày Tết của phụ nữ. Tuyết như một tấm chăn trùm lên mặt đất, tưới cho đất, khiến đất đai sinh sôi nảy nở. Tuyết là thứ nước của sinh nở, là tượng trưng của mùa đông, càng là báo hiệu của mùa xuân. Tuyết rơi, nghĩa là mùa xuân đầy sức sống đã nhảy lên lưng con tuấn mã, tới gần.
Dưới chân tháp có một tịnh thất nho nhỏ. Trong tịnh thất không thờ cúng thần tiên nào cả, thực tế là cúng vái ở ngoài tháp. Trong tịnh thất thắp hương vòng mùi thơm nhẹ nhàng, trước lư hương có một chậu gỗ to đầy tuyết trắng tinh, không một vết bẩn. Phía sau cái chậu là một chiếc ghế đẩu, đây là chỗ ngồi của Công tử Tuyết.
Tôi ngồi xuống ghế, nghĩ ngay đến nhiệm vụ cuối cùng khiến tôi vô cùng xúc động. Lão đạo sĩ vén tấm ri đô ngăn tịnh thất với bên ngoài, bước vào. Lão trùm lên đầu tôi chiếc khăn sa mỏng màu trắng. Theo lời dặn của lão, tôi hiểu trong khi thực hành chức trách, tôi không được vén chiếc khăn sa lên. Tôi nghe thấy tiếng chân lão đạo sĩ nhẹ nhàng đi ra. Trong tịnh thất chỉ có tiếng thở, tiếng tim dập của tôi. Bên ngoài, vọng tới tiếng chân dẫm lên tuyết lạo xạo của mọi người.
Một phụ nữ nhẹ nhàng tiến lại phía tôi. Qua tấm sa mỏng, tôi lờ mờ nhìn thấy người này có thân hình thanh mảnh, trên người toát ra cái mùi lông lợn cháy. Người này chắc không phải là dân trấn Đại Lan, rất có thể là người thôn Sa Lương. Thôn này có một cơ sở sản xuất bàn chải bằng lông lợn. Bất kể là người ở đâu, Công tử Tuyết đều coi như nhau. Tôi lập tức thọc hai bàn tay vào chậu tuyết để tuyết thiêng rửa sạch những gì ô uế trên tay tôi, rồi tôi giơ hai tay ra phía trước. Theo qui định, những phụ nữ đến cầu tự, đến xin được có nhiều sữa, đều vén áo lên, đưa vú đến tận tay Công tử Tuyết. Quả nhiên, hai khối thịt ấm và mềm mại đã chạm vào bàn tay lạnh giá của tôi. Tôi cảm thấy chóng mặt, qua hai bàn tay, luồng hơi ấm hạnh phúc lan khắp cơ thể tôi. Tôi nghe thấy tiếng thở khó kìm hãm của người phụ nữ. Hai bầu vú mềm mại như đôi chim bồ câu chững lại một thoáng rồi tuột khỏi tay tôi.
Cặp vú thứ nhất tôi sờ chưa đã, thì đã bay mất. Tôi hơi thất vọng nhưng càng hy vọng nhiều hơn, nhúng hai tay vào chậu tuyết để lấy lại sự tinh khiết thiêng liêng. Tôi hơi sốt ruột chờ đợi cặp vú thứ hai. Cặp vú thứ hai đã tới, lần này tôi không để chúng bay đi một cách dễ dàng! Tôi giơ bàn tay rắn chắc chộp lấy chúng. Chúng xinh xắn và rất dàn hồi, không mềm cũng không rắn, như chiếc màn thầu mới ra lò, không nhìn rõ chúng nhưng tôi biết chúng rất trắng, rất mịn, núm vú rất nhỏ, chỉ như hai cái nấm tí hon. Tôi nắm lấy chúng, thầm chúc cho chúng những lời tốt đẹp nhất. Bóp một cái, chúc chị đẻ sinh ba – ba đứa con bụ bẫm; bóp hai cái, chúc sữa chị tuôn trào như suối, bóp ba cái, chúc sữa chị vừa ngọt vừa thơm. Chị rên lên khe khẽ rồi giật mạnh ra. Tôi sững sờ vì bị giáng một đòn vào tình cảm, trong lòng rất đỗi hổ thẹn. Để tự trừng phạt, tôi thọc hai tay thật sâu vào chậu tuyết. Ngón tay tôi chạm vào đáy chậu trơn tuột cho đến khi hai tay tôi tê dại hẳn đi, tôi mới rút chúng ra. Công tử Tuyết giơ cao hai tay chúc phúc cho tất cả phụ nữ vùng đông bắc Cao Mật. Tình cảm của tôi bị tổn thương, hai bầu vú lõng thõng như hai cái bị chạm vào tay tôi. Tôi sờ chúng, chúng không chịu, kêu trong họng như con gà mái, mặt da nhăn lại. Tôi dùng hai ngón tay kẹp lấy cái đầu vú to tướng rồi nhả ra luôn. Người đàn bà phả vào mặt tôi hơi thở sặc mùi gỉ sắt. Công tử Tuyết coi ai cũng như ai, chúc bà thực hiện được nguyện vọng, thích sinh con trai thì sinh con trai, thích sinh con gái thì sinh con gái, muốn có bao nhiêu sữa thì có bấy nhiêu sữa? Bầu vú của bà sẽ luôn luôn khỏe mạnh, nhưng nếu muốn trở lại thời thanh xuân thì Công tử Tuyết bất lực!
Cặp vú thứ tư tính tình bạo liệt như con điều hâu, lông cánh màu nâu, mỏ cứng, cổ ngắn và khỏe. Cái mỏ cưng của chúng cứ mổ mổ vào lòng bàn tay tôi. Bên trong cặp vú thứ năm hình như có cả một tổ ong vò vẽ. Tay tôi vừa sờ vào, bên trong hến nổi lên những tiếng vù vù. Do va đập của lũ ong, nên bề mặt của vú nóng hôi hổi. Tay tôi rân rân như kiến bò, tôi gửi tới chúng những lời chúc mừng tốt đẹp!
Ngày hôm đó tôi sờ khoảng một trăm hai mươi cặp vú những ấn tượng về một số cặp tiếp nối nhau như một quyển sách, có thể giở từng trang. Nhưng tất cả những ấn tượng rõ nét ấy bị một chiếc vú cuối cùng làm đảo lộn tất cả. Nó như một con tê giác húc lung tung, tạo nên một trận động đất trong kho ký ức của tôi, hay như một con trâu rừng xông vào vườn rau, đẫm bẹp tất cả.
Khi đó hai bàn tay tôi đờ đẫn ra vì những cảm giác nóng bỏng, chờ đợi cặp vú sau để thực hiện chức trách của Công tử Tuyết. Vú chưa tới mà tôi đã nghe tiếng cười rúc rích quen thuộc. Má hồng môi thắm, mắt đen láy khuôn mặt ăn chơi của người phụ nữ trẻ có biệt hiệu là Kim Một Vú bỗng hiện ra trong đầu tôi. Tay trái tôi sờ trúng vú phải đồ sộ của chị, còn tay phải thì sờ vào khoảng không. Vậy là tôi biết chắc chắn Kim-Một-Vú đây rồi. Người phụ nữ phong lưu góa chồng buôn bán dầu thơm này suýt bị tử hình trong đại hội đấu tranh. Sau đó, chị lấy một người nghèo nhất trong thôn, nhà không một gian, đất không một tấc cắm dùi, một hành khất, tên là Nhỡn Phương Kim, trở thành vợ của cố nông đỏ. Chồng chỉ có một mắt, vợ chỉ có một vú, thật là một cặp trời sinh. Kim-Một-Vú được gọi là mụ Kim, mụ nhưng không già, về cách chơi độc đáo của chị ta vẫn được lưu truyền trong giới đàn ông trong thôn, tôi đã được nghe nhiều lần, hiểu mà không hiểu. Tay trái tôi nắm vú chị, chị dùng tay trái dẫn tay tôi sang bên phải. Hai tay tôi nâng bầu vú nặng chịch, to quá cỡ, cảm thấy hết sức nặng của nó. Chị hướng dẫn tôi sờ nắn từng phần da trên vú chị. Nó như một quả núi đơn côi, nghễu nghện trên ngực trái, nửa trên là bờ dốc thoai thoải, nửa dưới là nửa quả cầu hơi chúc xuống. Nó là chiếc vú ấm nhất trong những cái vú mà tôi đã sờ, nóng bỏng như da con gà trống bị bệnh đậu. Nó thật mịn màng, nếu không quá nóng, nó sẽ mịn hơn nữa. ở đầu mút của bán cầu dưới, trước hết là bộ phận nhô ra như một cái chén úp ngược, và phần cong ngược lên chính là núm vú. Nó khi mềm khi cứng như viên đạn bọc cao su, vài giọt sữa lành lạnh bám trên đầu ngón tay tôi. Tôi bỗng nhớ lại câu nói của Thạch Tân, anh chàng từng đi buôn lụa mãi tận miền nam xa xôi, nói với tôi trong lò sấy cỏ. ánh ta nói rằng, Kim Một Vú dâm như quả đu đủ xanh, hễ động tới là chảy nhựa trắng ra. Quả đu đủ giống Kim Một Vú ư? Tôi chưa trông thấy quả đu đủ, nhưng bằng vào cảm giác tôi hiểu rằng đu đủ là xấu, là mê hoặc người ra. Nhiệm vụ thiêng liêng của Công tử Tuyết đã bị Kim Một Vú lái trệch sang một lối khác. Bàn tay tôi như miếng bọt biển thấm lấy sức nóng trên vú chị, còn chị hình như thỏa mãn đến mức cao nhất qua những ve vuốt của tôi. Chị rên rỉ như lợn con, ghì nhặt đầu tôi vào ngực chị, ấp bầu vú nóng bỏng lên mặt tôi. Tôi nghe thấy chị lẩm bẩm:
– Bạn thân yêu, bạn thân yêu của tôi…
Qui ước của Chợ Tuyết đã bị phá.
Một câu nói là một tai họa.
Một chiếc xe Jeep màu xanh lá cây dừng lại trên bãi trống trước cửa nhà lão đạo sĩ, từ trên xe nhảy xuống bốn nhân viên công an mặc quân phục màu vàng, huy hiệu trắng đeo trước ngực. Họ nhanh nhẹn như những con báo, xông vào nhà lão đạo sĩ. Vài phút sau, lão đạo sĩ tay bị còng sấp ngửa chui ra. Lão đạo sĩ buồn bã nhìn tôi không nói gì, nhẫn nhục chui vào xe. Ba tháng sau, lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ, tên đầu sỏ của một đạo phản động, tên gián điệp nằm vùng thường xuyên bắn pháo hiệu trên định dốc, bị bắn dưới cầu Đoạn Hồn ở huyện. Con chó mù của đạo sĩ bị bắn bể sọ khi nó rượt theo chiếc xe Jeep.
2
Tôi hắt hơi một cái rõ kêu rồi tỉnh ngủ. ánh đèn dầu vàng vọt chiếu trên tường. Mẹ ngồi dưới đèn, tay mân mê tấm lông chồn, chiếc kéo lớn để trên đầu gối, cái đuôi con chồn rập rình trên tay mẹ. Tôi nhảy xuống giường, lập tức nước chảy như xối vào bô tiểu. Một người đàn ông mặc quân phục màu vàng, mặt mũi lấm lem, dáng như khỉ đột ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh giường. Ông ta gãi bộ tóc hoa râm bằng những ngón tay co quắp, nét mặt nhăn nhó khó sở.
– Kim Đồng phải không? – Ông ta thận trọng hỏi tôi, cặp mắt đen tỏ vẻ thân thiện.
Mẹ bảo:
– Kim Đồng, đây là anh Tư Mã của con!…
Thì ra là Tư Mã Đình. Mấy năm không gặp, không ngờ ông ta thay đổi đến nông nỗi này. Còn đâu một Tư Mã Đình oai phong lẫm liệt khi làm trưởng trấn cầm súng quan sát trên chòi canh? Những ngón tay mũm mĩm như quả dưa chuột đâu rồi?
Khi hai người bí ẩn bắn vỡ đầu Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng thì Tư Mã Đình đang nấp sau máng cỏ trong chái hiên nhà tôi, nhảy dựng lên như con cá chép vọt lên khỏi mặt nước. Tiếng súng chát chúa như dùi nhọn đâm vào màng nhĩ. Ông ta sốt ruột đi vòng quanh cối xay như con lừa, hết vòng này đến vòng khác. Tiếng vó ngựa râm ran trong ngõ rồi xa dần như sóng thủy triều. Ông ta nghĩ, bỏ bà rồi, phải trốn thôi, không thể ở đây chờ chết? Sau đó ông ta may mắn chạy thoát. Sau khi được tin Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng đều bị bắn chết, ông ta cứ xuýt xoa mãi về sự may mắn của mình. Rơi vào tay họ, Tư Mã Đình này chắc chết! Khoan hãy nhắc đến chuyện là trưởng trấn, trưởng ban an ninh, chỉ riêng chuyện là anh trai Tư Mã Khố cũng đủ để họ băm vằm mình ra! Ngụy trang trên đầu bằng một nắm rơm, ông ta trèo qua mặt tường vây phía nam là nơi thấp nhất, rơi đúng một đống phân chó, ngã như trời giáng. Lúc này, nghe thấy tiếng ồn ào đầu ngõ, ông ta vội rúc vào một đống rơm, nằm đè lên một con gà mái và ổ trúng của nó. Ngay sau đó là tiếng đập cửa rất mạnh, rất thô bạo. Rồi có mấy người cao to, mặt bịt khăn đen, vòng ra chân tường, những cụm cỏ khô bị nghiền nát dưới những bàn chân hộ pháp. Người nào cũng tiểu liên trong tay, hùng hùng hổ hổ, vọt qua tường nhanh như én liệng, trông rất giống những vệ sĩ của nhân vật bự. Ông ta không hiểu bọn này vì sao lại che mặt. Sau khi được tin Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng đầu bị bắn chết, cái đầu rối tinh của ông ta chợt lóe lên, hình như ông ta đã rõ chuyện. Những người kia nhảy vào trong sân. Tư Mã Đình cố sống cố chết rúc sâu hơn nữa, chờ đợi tình hình ngã ngũ ra sao.
– Chú Hai là chú Hai, tôi là tôi! – Tư Mã Đình bảo mẹ – chuyện ai người ấy bàn!
Mẹ bảo:
– Vậy thì gọi là bác vậy. Kim Đồng, đây là bác Tư Mã!
Tôi gật đầu nhìn những ngón tay co quắp của ông ta rồi lại lồm cồm bò lên giường chui vào trong chăn. Trong lúc mơ màng để đi vào giấc ngủ, tôi nhìn thấy ông ta lấy ra một tấm huân chương đưa cho mẹ, giọng ề à có vẻ ngượng:
– Thím này, tôi đã lập công chuộc tội rồi đấy?
Tư Mã Đình lợi dụng bóng đêm chạy ra khỏi thôn. Nửa tháng sau, ông ta bị đưa vào đội tải thương, cặp đôi với một thanh niên mặt đen, khiêng một cáng. Tôi nghe ông ta thì thào kể lại những điều kỳ lạ mà ông ta đã trải qua như một thiếu niên dựng chuyện để biện bạch cho những sai lầm của mình. Cái đầu nặng trĩu tóc của mẹ lắc lư dưới ánh đèn, da mặt như dát vàng, đôi môi đường nét phân minh hơi cong lên, mẹ mỉm cười tỏ vẻ châm biếm.
– Những chuyện tôi kể đều rất thật – Tư Mã Đình phân bua – Tôi biết thím không tin, nhưng cái huân chương này thì chắc chắn không phải tôi làm ra, mà phải đổi bằng cái đầu của tôi đấy?
Có tiếng kéo cắt tấm lông chồn, mẹ nói:
– Anh Tư Mã, có ai bảo anh bịa chuyện đâu?
Tư Mã Đình và chàng thanh niên mặt đen cáng ông trung đoàn trưởng bị trúng đạn ở ngực, sấp ngửa chạy qua cánh đồng. Máy bay lượn trên trời, sáng lóa màu xanh của thép. Đạn pháo và các cỡ đạn kéo theo những đuôi lửa dài vạch dọc vạch ngang bầu trời, đan thành một lưới lửa dày đặc và biến hóa muôn màu muôn vẻ. ánh chớp của đạn pháo và tiếng nổ rền như sấm, soi rõ những bờ ruộng ngoằn ngoèo và mặt ruộng mấp mô đầy cuống rạ rắn đanh sau khi gặt hái. Các dân công tải thương chạy tán loạn trên cánh đồng, nháo nhào không còn biết chạy theo huống nào. Tiếng kêu thê thảm của thương binh râm ran trong đêm tối.
– ối mẹ ơi, đau chết mất?… Tiểu đội trưởng ơi, làm ơn cho tôi một phát, tôi không chịu nổi nữa!…
Chỉ huy dân công là một phụ nữ tóc cắt ngắn, tay cầm đen pin có tua lụa đỏ, đứng trên bờ ruộng thét to:
– Không được chạy lung tung, phải bảo vệ thương binh!…
Giọng chị ta rất rè, như miết gót giày trên cát khô. Những ánh chớp xanh soi rõ khuôn mặt chị ta. Chị quàng chiếc khăn mặt trắng quanh cổ, thắt lưng da cài hai quả lựu đạn chày và chiếc ca sứ. Đây là một phụ nữ cực kỳ tháo vát. Ban ngày, chị mặc chiếc áo màu đỏ ớt dẫn đội cáng thương chạy như sóc trên hỏa tuyến. Chị như một con bướm màu không ăn nhập với cảnh trận mạc chút nào.. Hàng vạn phát đại bác cày xới cánh đồng, biến mặt đất đông cứng thành tơi xốp như trong vụ xuân. Lúc trời còn sáng, Tư Mã Đình trông thấy một đóa hoa bồ công anh nở bên cạnh đám tuyết bị máu nóng làm tan thành nước. Dưới chiến hào ngột ngạt, các binh sĩ đang xúm lại ăn cơm, nhưng bánh màn thầu trắng tinh, những củ hành muối màu trắng ngà, miệng nhai rau ráu, ăn như vũ bão. Mùi thức ăn khiến Tư Mã Đình rỏ nước miếng. Những phu tải thương lôi những nắm cao lương khô cứng ra để gặm, nét mặt nhăn nhó khổ sở. Họ trông thấy chiến hào trước mặt, vị nữ đại đội trưởng nhởn nhơ như con bướm đang cười đùa với một cán bộ thắt lưng giắt khẩu súng lục, vừa cười vừa đi theo chiến hào tới chỗ họ.
Nữ đại đội trưởng nói:
– Thưa các đồng chí, trung đoàn trưởng Lã đến thăm các đồng chí!
Đám dân công gượng đứng dậy. Tư Mã Đình nhìn đôi lông mày rậm trên khuôn mặt đỏ như táo chín của trung đoàn trưởng, nghĩ mãi không ra lai lịch của người này.
Trung đoàn trưởng tỏ vẻ khách sáo:
– Mời các đồng chí ngồi xuống!
Đám dân công ngồi xuống, tiếp tục ăn. Trung đoàn trưởng nói:
– Cảm ơn bà con, các vị vất vả quá?
Đám dân công phần lớn im lặng, chỉ có mấy người hô to:
– Thủ trưởng khỏe!
Tư Mã Đình vẫn không nhớ ra đã gặp người này ở đâu.
Trung đoàn trưởng tỏ vẻ quan tâm bữa ăn đạm bạc và những đôi giày rách nát của đám dân công. Trên khuôn mặt như tạc bằng gỗ đàn hương của ông ta, thoáng một chút thương hại. Ông ta gọi to:
– Liên lạc đâu? Một chiến sĩ thân hình nhỏ bé, men theo chiến hào chạy tới.
– Bảo lão Điền đem tất cả bánh bao còn lại đến đây. Chú liên lạc chạy đi như bay.
Trung đoàn trưởng nói:
– Bà con cố chịu đựng một chút. Cách mạng thắng lợi, chúng ta sẽ có màn thầu ăn hàng ngày.
Trung đoàn trưởng đích thân chia bánh, mỗi người một chiếc kèm theo nửa củ hành. Khi trung đoàn trưởng đưa cho Tư Mã Đình chiếc bánh màn thầu còn bốc hơi, bốn mắt gặp nhau, Tư Mã Đình liền nhớ ra người trung đoàn trưởng mặt như táo chín này chính là Lã Thất, trung đội phó trung đội lừa thuộc Chi đội Tư Mã Khố mấy năm về trước. Lã Thất cũng nhận ra Tư Mã Đình. Anh ta nắm vai Tư Mã Đình bóp mạnh một cái, nói nhỏ:
– Ông Cả, ông cũng ra mặt trận à?
Tư Mã Đình thấy cay nơi sống mũi, định nói câu gì đó với Lã Thất, nhưng Lã Thất đã quay sang nói với đám dân công:
– Thưa bà con, xin cảm ơn, không có sự ủng hộ của bà con thì cách mạng không thể thắng lợi!
Khi cuộc tổng công kích bắt đầu, Tư Mã Đình và người bạn khiêng cáng của ông ta phục trong chiến hào thứ hai nghe tiếng rít của pháo bầy bay qua đầu và tiếng nọ long trời chuyển đất xa xa. Kèn hiệu vang lên, các binh sĩ hò hét xông lên. Nữ đại đội trưởng đứng thẳng dậy hét to:
– Xông lên cứu thương binh
Chị ta vọt khỏi chiến hào, tay giơ cao quả lựu đạn. Đạn vãi như trấu xung quanh, cắm phầm phập xuống đất. Sắc mặt chị trắng nhợt nhưng không phải vì sợ. Đám dân công dè đặt đứng lên trong hào sâu đến ngang ngực, khom người theo bản năng. Một dân công nhỏ con vụng về trèo lên mép chiến hào, tràng đạn nổ xung quanh khiến anh ta lại lăn xuống vừa khóc vừa gọi:
– Đại đội trưởng, tôi bị thương rồi?
Nữ đại đội trưởng nhảy xuống hào hỏi:
– Bị thương ở chỗ nào?
Anh dân công nói:
– Đũng quần tôi nóng ran lên.
Nữ đại đội trưởng kéo anh ta đứng dậy. Chị nhíu cặp lông mày tuyệt đẹp, nhăn mũi đánh hơi, giọng khinh bỉ:
– Đồ thỏ đế, ỉa đùn ra quần rồi!
Chị ta đập nhẹ quả lựu đạn vào vai anh dân công, nói to: –
Các đồng chí, các vị đều là bậc tu mi nam tử, chẳng lẽ không bằng một phụ nữ như tôi?
Lời khích của nữ đội trưởng quả nhiên có tác dụng, đám dân công ào ào xông lên.
Tư Mã Đình đứng lên, trông thấy người khiêng cáng với mình nằm run như cầy sấy dưới chiến hào.
– Anh bạn, anh làm sao thế? – Ông ta hỏi nhưng người kia không trả lời.
Tư Mã Đình cúi xuống lật ngửa anh ta lên, chỉ thấy anh ta mặt tái nhợt, răng nghiến chặt, hàm răng đánh cầm cập, nước bọt sùi ra hai bên mép.
– Tư Mã Đình, ông còn đợi gì nữa? Sợ chết hả? – Nữ đại đội trưởng trợn mắt hỏi.
– Đại đội trưởng,… – Tư Mã Đình lúng túng – Có lẽ anh ta trúng gió độc?
– Mẹ kiếp, lúc nào chẳng trúng, lại trúng ngay lúc này! – Nữ đại đội trưởng vừa chửi vừa nhảy xuống hào, đá vào người anh kia. Anh ta nằm yên. Chị ta lấy lựu đạn gõ vào đầu gối, anh kia vẫn không cựa quậy. Chị ta lồng lên, y hệt con báo gấm trong chuồng. Chị ta vặt một nắm cỏ ở mép chiến hào nhét vào miệng anh bị trúng gió, dỗ dành: ăn đi, ăn đi, trúng gió ăn cỏ là tỉnh, ăn đi nào! Chị ta dùng chuôi lựu đạn đẩy cỏ vào trong miệng anh kia, Anh kia rên lên một tiếng rồi ngước cặp mắt trắng đã lên. Cách này hóa ra hiệu nghiệm. Nữ đại đội trưởng nói, vẻ đắc ý:
– Hứa Bảo, Hứa Bảo, lên đi, thương binh đã chuyển xuống rồi?
Anh thanh niên có tên là Hứa Bảo này rên rỉ vịn mép hào đứng lên. Chân tay anh ta hãy còn run, các bắp thịt trên mặt co giật, khi trèo lên mép hào, chân tay anh ta mềm nhũn. Tư Mã Đình lôi chiếc cáng lên, kéo anh thanh niên chạy theo. Hứa Bảo mỉm cười nhìn Tư Mã Đình tỏ vẻ cảm kích. Nhìn nụ cười quái dị của Hứa Bảo, Tư Mã Đình thấy trong lòng đau nhói. Ông ta không bao giờ quên được nụ cười đó.
Họ xách cáng, loạng choạng chạy theo nữ đại đội trưởng. Tuyết bị dẫm nát trộn lẫn với bùn, từng đống vỏ đạn va vào nhau lạo xạo. Đạn bay chíu chíu, đạn pháo dựng lên từng cột khói, những tiếng nổ lớn rung chuyển cả đất dưới chân. Theo sau ngọn cờ hồng, các binh sĩ ùa lên như nước vỡ bờ. Phía trước, khẩu liên thanh đặt sau bức tường đất cao, rống lên ông ổng như chó dại, những tia lửa xòe ra như nan quạt, các binh sĩ xung phong bị đốn gục từng mảng. Khẩu súng phun lửa từ sau bức tường phụt lửa cuồn cuộn như rồng lộn, các binh sĩ xung phong như nhảy múa trong vầng lửa, la hét khiến người nghe sởn gai ốc. Có binh sĩ thoát được ra ngoài, lăn lộn dưới đất để dập lửa trên người. Có binh sĩ bị rồng lửa trùm lên, nhảy nhót như điên, mặt méo xệch vì đau rát và vì sợ hãi, rồi chỉ trong chớp mắt là gục xuống, mùi khét của thịt người cháy xộc vào mũi và lan rộng ra, khiến đám binh lính và dân công lộn mửa. Trong tầm nhìn hạn hẹp của Tư Mã Đình, đã thấy đám binh sĩ đổ rạp như những cây gỗ mục. Hứa Bảo bỗng ngã lăn ra, kéo Tư Mã Đình ngã theo. Miệng ông ta vừa chạm đất thì một loạt đạn nóng bỏng quật ngã mấy người dân công phía sau. Súng phun lửa réo ù ù, những quả thủ pháo xì khói, lăn lông lốc, phát nổ đùng đoàng, những mảnh đạn bằng hạt đậu xé rách không khí.
– Mẹ ơi, hôm nay không thoát chết, mẹ ơi!
Hứa Bảo hai tay ôm đầu, chổng mông lên, chiếc quần bông thủng lỗ chỗ, lòi cả bông bẩn ra. Những binh sĩ xung phong đều là những tay cừ khôi. Họ hò hét vừa cúi xuống thấp vừa nhả đạn, dẫm lên thi thể chiến hữu của mình và băng tuyết nhuốm đầy máu, xông lên chỗ bức tường vây theo hiệu kèn và ngọn cờ hồng rách tơi tả bất kể sống chết leo lên tường, trèo bằng thang, bằng dây thừng. Những thân hình từ trên cao rơi xuống cùng với tiếng rú thê thảm. Những thân người rơi xuống dưới chiến hào đóng băng, co quắp, lăn lộn, lết đi bất kể đi đâu.
Nữ đại đội trưởng nằm cách Tư Mã Đình một khoảng không xa, hai tay thọc sâu vào bùn, mông chị bốc khói trắng. Quần chị bén lửa. Chị lăn tròn trên tuyết, bốc đất nhét vào lỗ thủng trên quần. Các chiến binh trèo lên bức tường vây, tiếng reo đinh tai nhức óc, súng bắn như vãi đạn. Nữ đại đội trưởng chạy lên được mấy bước bỗng gục xuống như bị trúng đạn, chắc là rất đau. Chị bật dậy chạy tiếp, chị khom người mà chạy như cây cao lương đã thành thực. Chị lôi ra một người từ đống xác chết rồi kéo trở lui. Chị kéo một cách vất vả như con kiến tha mồi, đến trước mặt Tư Mã Đình và Hứa Bảo. Đó là trung đoàn trưởng Lã Thất. Anh bị mấy vết thương ở ngực, máu chảy, bọt máu đùn ra, vết thương rộng đến nỗi trông thấy phổi đang phập phồng.
– Cáng về tuyến sau, mau lên! – Nữ đại đội trưởng ra lệnh.
Hứa Bảo cứ đứng ngẩn ra mà nhìn nữ đại đội trưởng. Nữ đại đội trưởng giận điên lên, quát to:
– Đồ khốn!
Tư Mã Đình vội vàng mở cáng ra đặt trung đoàn trưởng Lã lên. Cặp mắt nâu của trung đoàn trưởng Lã nhìn Tư Mã Đình một thoáng tỏ vẻ áy náy rồi nhắm lại.
Họ khiêng cáng chạy trở lui, đạn đuổi theo chíu chíu như tiếng chim. Tư Mã Đình khom người xuống mà chạy, nhưng chạy như vậy rất khó, ông ta liền đứng thẳng lên mà chạy, sống chết có số, ông ta nghĩ. Vậy là bạo dạn hẳn lên, chân bước thanh thoát hơn.
Tại trạm cứu thương, các y tá băng tạm cho trung đoàn trưởng rồi cho cáng tiếp về phía sau để đưa vào bệnh viện. Lúc này mặt trời đã ngả về tây, nơi đường chân trời có vầng mây hồng, dày và đặc quánh. Cây dâu cổ thụ đứng trơ trọi giữa đồng không mông quạnh, cành lá vấy đầy máu, thân cây ướt mèm như đổ mồ hôi. Dưới sự chỉ huy của nữ đại đội trưởng, các cáng tải thương dần dần tập trung ở một ruộng lúa. Máy bay đã bay đi. Trên nền trời màu tím, những ngôi sao nhấp nháy trong ánh chớp của đạn pháo. Cuộc chiến vẫn tiếp tục Các dân công vừa đói vừa mệt. Tư Mã Đình dù sao thì tuổi đã cao, lại cặp đôi với một anh vừa bị trúng gió, nên càng mệt đứt hơi. Ông đứng mà ông không cảm thấy mình có chân hay không, mồ hôi trong người đã chảy hết từ ban ngày, giờ đây tại ruộng lúa, trên người ông chỉ còn rỉ ra một chất nước dính và sau đó ông cảm thấy lục phủ ngũ tạng khô héo đi như quả mướp khô. Trung đoàn trưởng Lã là con người thép, anh cắn răng chịu đau không rên một tiếng. Tư Mã Đình luôn cảm thấy mình khiêng trên vai một xác chết, mùi tử khí thi thoảng lại tạt vào mũi ông.
Nữ đại đội trưởng chỉnh đốn lại đội ngũ rồi ra lệnh xuất phát về tuyến sau. Chị ta khuyên mọi người không nên dừng lại để nghỉ, vì dừng lại là không dậy nổi nữa. Họ theo nữ đội trưởng qua sông. Mặt băng rạn vỡ vì đạn pháo. Hứa Bảo bước hụt, ngã xuống nước. Tư Mã Đình cũng ngã theo. Chàng thanh niên này như cố ý tự tử hay sao mà cởi luôn dây cáng trên người, chui luôn xuống lỗ băng mất hút. Trung đoàn trưởng Lã đau quá chịu không nổi, bật ra những tiếng rên rỉ. Nữ đại đội trưởng túm lấy một đầu cáng, cùng khiêng với Tư Mã Đình, thất thểu về đến bệnh viện hậu phương. Chuyển thương binh xong, đám dân công liền nằm lăn ra đất. Nữ đại đội trưởng nói:
– Đừng nằm, các đồng chí ơi!
Nhưng chửa nói hết câu, chính chị cũng nằm lăn ra.
Trong một chiến dịch sau đó, Tư Mã Đình bị mảnh đạn tiện đứt ba ngón tay phải. Ông ta cắn răng chịu đau, cõng một trung đội trưởng bị gãy chân về tuyến sau.
Sáng sớm, lúc ngủ dậy, trước tiên tôi ngửi thấy mùi thuốc lá, rồi trông thấy mẹ ngồi ngủ trong ghế dựa kê sát tường, một dòng nước bọt trong suốt chảy ra từ khóe mép. Tư Mã Đình ngồi ngủ gật trên chiếc ghế bên giường như con điều hâu đậu trên chạc cây. Mặt đất vương vãi những mẩu thuốc.
Cô Kỷ Quỳnh Chi mà sau này là cô giáo chủ nhiệm lớp tôi, từ huyện về trấn Đại Lan phát động phong trào cải giá cho phụ nữ. Cô đem theo một số cán bộ nữ hung hăng như ngựa hoang, tập trung tất cả phụ nữ lại để giảng giải ý nghĩa của chuyện cải giá. Sau đó, như phân phối gà mái, họ ghép đôi những phụ nữ góa chồng với những người đàn ông độc thân. Ngay cả ông Đỗ thọt cũng được chia một chị góa trẻ măng, da trắng nõn, mắt có nhài quạt. Khi chị góa này trông thấy cái chân đầy mủ hôi thối của ông Đỗ, chị khóc như mưa như gió, xin chị cán bộ cho phép không lấy ông ta. Chị cán bộ sốt ruột nói:
– Khóc cái gì? Chân rỉ ra mủ thì có gì đáng sợ? Chỉ cần chim không chảy mủ là được rồi?
Trong cuộc vận động này, những phụ nữ góa chồng nhà Thượng Quan trở thành vật cản. Chị Cả Lai Đệ không ai lấy, vì các vị biết rằng chị đã từng có quan hệ với Tư Mã Khố, cũng là người đã hứa hôn với Tôn Bất Ngôn, mà hai người này đều không hiền lành chút nào. Mẹ ở trong độ tuổi mà Kỷ Quỳnh Chi qui định phải tái giá nhưng mẹ kiên quyết không chịu. Cô cán bộ La Hồng Hà vừa bước vào nhà liền bị mẹ chửi cho một trận, đuổi ra.
Mẹ mắng:
– Cút, tôi còn lớn tuổi hơn mẹ cô!
Điều kỳ lạ là khi Kỷ Quỳnh Chi đến khuyên nhủ thì mẹ lại nhẹ nhàng hỏi: – Cô định gả tôi cho ai? Thái độ của mẹ đối với Kỷ Quỳnh Chi so với La Hồng Hà khác nhau một trời một vực, chỉ xảy ra cách nhau vài tiếng đồng hồ.
Kỷ Quỳnh Chi nói:
– Bác ạ, người trẻ thì không xứng đôi người lớn tuổi một tí thì chỉ có Tư Mã Đình. Lý lịch ông ta tuy có vết, nhưng sau đó ông ta đã lập công, lấy công bù tội. Hơn nữa, quan hệ của hai nhà không xa lạ như những gia đình khác.
Mẹ cười buồn:
– Cô này, em trai ông ta là rể của tôi?
Kỷ Quỳnh Chi nói:
– Thế thì đã sao?
Lễ cưới tập thể của bốn mươi lăm phụ nữ góa chồng được tổ chức trong nhà thờ dột nát. Tôi căm lắm, nhưng tôi vẫn đến dự. Mẹ ngồi trong đám các bà góa, một thoáng đỏ mặt trên sắc da tái xanh của mẹ. Tư Mã Đình đứng trong đám đàn ông, luôn vuốt tóc bằng những ngón tay cụt không hiểu là để khoe mẽ hay để che giấu sự bối rối.
Kỷ Quỳnh Chi thay mặt Chính phủ tặng khăn mặt và xà phòng cho các cặp vợ chồng mới cưới. Trưởng trấn phát cho họ giấy đăng ký kết hôn. Mẹ cầm khăn mặt, giấy đăng ký kết hôn mà mặt đỏ như gấc, như một cô gái cả thẹn.
Trong lòng tôi bùng lên ngọn lửa căm ghét. Mặt tôi nóng bừng, xấu hổ thay cho mẹ. Trên tường nhà thờ, nơi xưa kia treo tượng chúa Giêsu thì nay toàn là bụi. Trên cái bục mà xưa kia mục sư Malôa làm lễ rửa tội cho tôi thì nay chen chúc một lũ đàn ông đàn bà không biết xấu hổ. Họ co ro cúm rúm, lấm la lấm lét như kẻ cắp. Mẹ tóc đã hoa râm mà phải kết hôn cùng anh trai con rể. Không, ý nghĩa thật sự của kết hôn là Tư Mã Đình ngủ cùng giường với mẹ một cách công khai. Bầu vú to bự của mẹ sẽ bị Tư Mã Đình chiếm hữu, giống như Tư Mã Khố, Bác-bít, Sa Nguyệt Lương, Tôn Bất Ngôn đã chiếm hữu bầu vú của các chị tôi. Nghĩ đến đây, nỗi đau như khoan vào tim, những giọt lệ căm phẫn ứa ra khỏi mắt tôi. Một nữ cán bộ rắc những cánh hoa nguyệt quế lên đầu các cô dâu, những cánh hoa khô héo rơi lả tả như một trận mưa bẩn thỉu, như những lông chim rơi xuống đầu mẹ, mái đầu hoa râm nhưng trơn bóng vì mẹ chải bằng dầu vỏ cây du.
Tôi chạy ra khỏi nhà thờ như một con chó dại. Trên đường phố già cỗi, tôi trông thấy rất rõ mục sư Malôa với chiếc áo chùng đen đang thủng thẳng bước đi, mặt đầy bùn đất, mái tóc đầy những mầm lúa mạch. Hai con mắt ông như hai quả nho tím, lạnh băng, ánh mắt đau xót.
Tôi lớn tiếng thông báo cho ông về việc Tư Mã Đình đã kết hôn với mẹ, nhìn thấy những thớ thịt co giật trên khuôn mặt đau khổ của ông, thân hình ông và cả chiếc áo choàng đen trong khoảnh khắc tan ra từng mảnh rồi biến thành một cụm khói đen, bay đi.
Trong sân, chị Cả đang vươn cái cổ trắng nõn để gội mái tóc dày của chị. Khi chị cúi xuống, hai bầu vú trắng hồng tuyệt đẹp của chị khoan khoái cất giọng du dương như chim vàng anh. Khi chị đứng thẳng lên, những giọt nước nối đuôi nhau chảy giữa khe vú. Chị đưa hai tay ra sau gáy vấn tóc, nheo mắt nhìn tôi rồi cười nhạt.
– Biết chưa? Mẹ lấy Tư Mã Đình – Tôi bảo chị.
Chị không nói gì, chỉ cười nhạt một tiếng. Mẹ dắt chị Ngọc Nữ, trên tóc còn vương những cánh hoa nhục nhã, bước vào trong nhà. Tư Mã Đình len lén theo sau. Chị Cả bưng chậu nước gội đầu hắt mạnh ra sân, nước bay thành vòng cung, trắng xóa. Mẹ thở dài, không nói gì. Tư Mã Đình móc trong túi ra tấm huân chương đưa cho tôi, không hiểu là để lấy lòng hay để khoe. Tôi nghiêm nghị nhìn vào mặt ông ta, trên mặt ông là một nụ cười giả dối. Mắt ông né tránh cái nhìn của tôi, ông giả vờ ho khẽ để che giấu sự lúng túng. Tôi ném chiếc huân chương đi, nó bay như con chim qua nóc nhà.
Mẹ giận dữ nói:
– Đi nhặt về đây!
Tôi vùng vằng, nói:
– Không nhặt!
Tư Mã Đình nói:
– Thôi, để cũng chẳng làm gì!
Mẹ đánh tôi một bạt tai.
Tôi nằm lăn xuống đất, lăn lộn như con lừa tắm khan. Mẹ dùng chân đá tôi, tôi chửi cay độc:
– Đồ mặt dày, đồ mặt dày!
Mẹ sững người, đầu gục xuống ngực rồi đột nhiên gào khóc ầm ĩ, vừa khóc vừa đi vào trong nhà. Tư Mã Đình thở dài, ngồi xổm hút thuốc dưới gốc cây lê. Hút xong mấy điếu thuốc, Tư Mã Đình đứng dậy bảo tôi:
– Cháu khuyên mẹ đừng khóc nữa!
Ông móc túi lấy tờ đăng ký kết hôn xé vụn, quẳng xuống đất rồi bỏ đi. Nhìn từ sau lưng, ông đã già thật sự