Home > Contend > Văn học nước ngoài > Thơ Raxun Gamzatov – Triệu Lam Châu dịch

Thơ Raxun Gamzatov – Triệu Lam Châu dịch

Nét nổi bật nhất trong phong cách thơ Raxun Gamzatov là sự giản dị giàu chất dân gian, nhưng thấm đượm một trí tuệ thâm trầm, sâu sắc,

đôi lúc có pha chút hóm hỉnh rất giàu chất dân dã của miền Đaghextan xứ núi. Nó thể hiện thành công tâm hồn mộc mạc, đôn hậu, giàu nghĩa khí của người miền núi quê ông, cùng những giá trị thăm thẳm của lịch sử và chiều sâu văn hoá của miền Đaghextan xa xôi mà gần gũi với chúng ta (Lời giới thiệu của dịch giả Triệu Lam Châu)

Nhà thơ Raxun Gamzatov (1923 – 2003), người dân tộc thiểu số Avar, nước Cộng hoà tự trị Đaghextan, thuộc Liên bang Nga. Ông được tặng danh hiệu nhà thơ nhân dân Liên Xô (1959), Nhà hoạt động xã hội, Anh hùng Lao động xã hội chủ nghĩa Liên Xô (1974). Năm 1963 Raxun Gamzatov đoạt Giải thưởng Lênin về văn học, với tập thơ Những ngôi sao trên cao. Bạn đọc Nga say mê phong cách thơ độc đáo của Raxun Gamzatov, phản ánh mảng hiện thực miền núi Đaghextan với một loạt tập thơ và trường ca đặc sắc: Mảnh đất của tôi, Tổ quốc của người sơn cước, Trái tim tôi trên núi, Bên bếp lửa, Và trò truyện cùng sao, Chuỗi hạt tháng năm, Cô sơn nữ, Cái giá cuối cùng, Trò truyện với người cha, Hãy phán xét tôi theo đạo luật của tình yêu, Hãy bảo vệ các bà mẹ, Hòn đảo của phụ nữ… Đặc biệt là hai tập văn xuôi trữ tình Đaghextan của tôi (đã được dịch sang tiếng Việt) càng thể hiện rực rỡ phong cách sáng tác độc đáo của ông.

Nét nổi bật nhất trong phong cách thơ Raxun Gamzatov là sự giản dị giàu chất dân gian, nhưng thấm đượm một trí tuệ thâm trầm, sâu sắc, đôi lúc có pha chút hóm hỉnh rất giàu chất dân dã của miền Đaghextan xứ núi. Nó thể hiện thành công tâm hồn mộc mạc, đôn hậu, giàu nghĩa khí của người miền núi quê ông, cùng những giá trị thăm thẳm của lịch sử và chiều sâu văn hoá của miền Đaghextan xa xôi mà gần gũi với chúng ta.

Thơ Raxun Gamzatov là sự giao thoa đẹp đẽ giữa hai nền văn hoá Nga và Đaghextan.

Trước kia, thơ Raxun Gamzatov là tiếng ca lạc quan, là sự suy ngẫm và trải nghiệm sâu xa về tình yêu, cuộc đời, về dân tộc, thời đại, về Tổ quốc, lịch sử, về tình đoàn kết các dân tộc xây dựng cuộc sống mới trong Liên bang Xô Viết.

Sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ năm 1991, một nhà thơ giàu ý thức công dân như Raxun Gamzatov, hẳn ông cảm thấy đau đớn vô cùng. Chính vì vậy thơ của ông sáng tác thời kỳ sau này nhuốm một nỗi buồn thế sự rất sâu xa. Mỗi vần thơ của ông chính là máu thịt của ông giữa cuộc đời này.

Thơ Raxun Gamzatov đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ trên thế giới.

Đồng cảm với tâm hồn Raxun Gamzatov, tôi chọn dịch những vần thơ tứ tuyệt của ông từ tiếng Nga ra tiếng Việt và tiếng Tày – Rồi tập hợp thành tập “Cây tiêu huyền nghe mưa”.

Nhân kỷ niệm tròn chín năm ngày mất (3/11/2003 – 3/11/2012) của nhà thơ Raxun Gamzatov, chúng tôi xin gửi tới bạn đọc yêu quý, phần một của tập thơ dịch “Cây tiêu huyền nghe mưa”.

 

Nhà thơ Raxun Gamzatov

Triệu Lam Châu viết lời giới thiệu và dịch thơ từ tiếng Nga ra tiếng Việt và tiếng Tày.

1. С добрым утром! Взгляни: ждет за окнами белый
Необъезженный конь. Оседлай, если смел.
И не дай тебе бог век печалиться целый
От сознанья, что мог, но свершить не успел.

1. Chào bạn! Hãy nhìn ngoài cửa sổ kia: Ngựa trắng đang chờ
Nếu can đảm, hãy thắng yên lên mình nó.
Cầu trời cho anh đừng buồn vì ý nghĩ:
“Có thể thắng yên cương, nhưng chưa kịp làm thôi”.

1. Pằng d’ạu ơi! Noỏc táng mì mạ khao d’ặng thả
Uảng slim gàn, hạy thảng an te
Ngoòng pằng d’ạu d’á p’uồn boỏng ngậy:
“Ái thảng an, t’ọ dằng lẩp hất nè”.

2. Что я желал бы под шатром судеб?
Всего, что вы желали бы, того же:
Чтоб легче и дешевле стал бы хлеб,
А слово и весомей, и дороже!

2. Bạn ước mong gì dưới mái lều số phận?
Ước mong mình cũng như bạn thôi:
Mong chiếc bánh mì nhẹ đi và thêm rẻ
Nhưng ngôn từ phải đắt giá hơn và thêm nặng ký nay mai.

2. Tẩư rườn slổ mỉnh, bạn ngoòng lăng
Ăn ngoòng rà tó t’ồng pằng d’ạu
Ngoòng nghé pẻng mì them rể dièn, them nẩư
T’ọ gằm sli mẻn pèng quỷ, nắc na them.

3. «Скажи мне, что в мире презренней всего?»
«Дрожащий, трусливый мужчина!»
«Скажи мне, что в мире презренней его?»
«Молчащий, трусливый мужчина!»

3. “Bạn ơi, trên đời này, điều gì đáng khinh nhất?”
“Đó là người đàn ông hèn nhát!”
“Còn gì đáng khinh hơn anh ta nữa không?”
“Đó là đàn ông vừa hèn và cứ mãi lặng thinh! ”

3.“Pằng d’ạu ơi, chang t’ởi nẩy, mòn lăng hây ngòi phiẻn?”
“Gần p’ỏ dài pjấu đi, lản lao!”
“Nhằng mòn lăng, đảng ngòi phiẻn hơn te bấu?”
“Gần p’ỏ dài gò tắm, bấu cảm khửn gằm!”

4. «Бесстрастные, что вы отвергли?» – «Страсть!»
«А страстью кто отвержен?» – «Мы, бесстрастные!»
«Подвластные, кто вас рождает?» – «Власть!»
«А кто ее рождает?» – «Мы, подвластные!»

4. “Lạnh nhạt ơi, ngươi từ chối điều chi?”-“say đắm!”
“Say đắm ruồng bỏ ai?” –“Chúng tôi, loài lạnh nhạt!”
“Lệ thuộc ơi, ai sinh ra ngài thế?” –“Uy quyền”
“Ai sinh ra uy quyền vậy ?” –“Là chúng tôi đây, những tay lệ thuộc”

4. “Mjạt xát ơi, gần nắm nhỉn mòn lăng?” – “Dăm chắm”
“Dăm chắm uẻng tả hâư” – “Boong rà, dổng mjạt!”
“Mẻn gà ơi, cầư sleng tản nỏ?” – “ Vạ quèn”
“Cầư sleng oóc bân quèn?” – “Chính boong khỏi lô, bại gần gà”

5. – Отчего тебя в гости друзья приглашать перестали?
– Я заносчивым был и не шел, куда звали меня.
– Отчего, как бродяга, ты смотришь на окна в печали?
– Оттого, что за ними хотел бы присесть у огня.

5. Sao bạn bè không mời anh đến nhà chơi nữa?
-Vì tôi tự hiểu, không thèm đến, lúc bạn bè mời
-Sao anh như kẻ lãng du buồn nhìn ra cửa sổ?
-Vì tôi muốn đến với bạn bè, ngồi quanh ngọn lửa.

5. Pằng d’ạu lăng nắm xỉnh d’ai pây rườn te lẩy?
– Nhoòng p’ửa te mởi rà, hây bấu slém pây
– D’ai lăng t’ồng lạo lẩy mường mủng p’uồn oóc táng?
– Nhoòng hây ái pây thâng pằng d’ạu, nẳng phing vầy.

6. «Мне женщина снилась в преддверии дня,
А вы, петухи, разбудили меня!»
«Ты лучше за то помолись, человек,
Чтоб мы тебя только будили весь век».

6. “Ta đang mơ đàn bà trước ngưỡng cửa của ngày,
Gà trống ơi, sao ngươi đánh thức ta đây ?”
“Tốt nhất, ngài cứ nên cầu nguyện
Cho chúng tôi luôn đánh thức được ngài”.

6. “Slì rẳp rủng hây đang slí phăn hăn mẻ nhình
P’ỏ cáy ơi, mầư lăng roọng rà tứn khoái?”
“Đây ất, lẻ p’ỏ tản ngoòng mo
Hẩư boong khỏi pjốc slỉnh lầng p’ỏ tản”.

7. На горящий аул Ахульго
Мир все больше похож год от года.
Диктатура погубит его
Иль, являя безумье, свобода?

7. Bản núi Akhungô nồng nàn
An lành muôn thuở.
Rồi nền chuyên chế làm rối tung hết cả
Đó là điên cuồng hay tự do?

7. Bản khau Akhungô kiu nua
Ỏn an fản t’ởi.
Rườn gẳp náp hất bông nhoài thuổn thảy
Bả mướng doỏc này rụ táng thư lô?

8. Была земля когда-то, как луна,
Не ведала лесов, озер и злаков.
Ужель себя и в мыслях не оплакав,
Хотим вернуть мы эти времена?

8. Ngày xưa trái đất như trăng
Không ai quản lúa, hồ xanh, cánh rừng…
Không hề tự khóc thương mình
Ta mong trở lại sống cùng ngày xưa…

8. P’ửa quây đin mẻ t’ồng hai
Bấu cầư cai khẩu, uằng, lai đông ngần
Bầu slì hâư hảy slương thân
Hây ngoòng slổng t’iẻo bại uằn p’ửa quây…

9. Мы сами оказались виноваты,
Что одичали разум и любовь,
Что не стихи, не лунные сонаты,
А пули в нас воспламеняют кровь.

9. Chúng tôi cảm thấy mình có lỗi
Bởi đã cho tình yêu và lý trí hoá thành hoang
Không phải thơ và bản Xô nát ánh trăng
Mà là đạn bắn vào mạch máu hồng, nổ cháy.

9. Boong khỏi táng hăn rà mì xá
Nhoòng úc áy, slim t’ầu t’ồng đin tả đai
Nắm dử tèo sli oạ tèo mjặc ngàu hai
Chính dử mác xá thít khảu mẹc lưởt rường, bùm théc.

Nhà thơ – dịch giả Triệu Lam Châu

 

10. Где восходит месяц рогом винным,

Слышал я от женщины одной:

«Тот родился в ухе буйволином,

Кто любви не ведал под луной».

 

10. Nơi trăng mọc lên như một chiếc sừng

Tôi nghe giọng đàn bà thủ thỉ :

“Tình yêu dưới trăng – những ai không biết giữ

Hẳn họ được sinh ra từ lỗ tai trâu?”

 

10. Hai rường nhó khửn  t’ồng  nghé coóc

Hây  t’ỉnh  nhìn hăn hênh nhỏi mẻ nhình

“Mì căn tẩư ngàu hai – cầư nắm dửc

Chăn tứ rù xu uài, boong te sleng?”

 

11. После Сталина я никого не боялся –

Ни Хрущева Никиты, ни прочих из них.

И собою самим, как поэт, оставался,

И при этом не врал я, в отличье от них.

 

11. Sau Stalin, tôi không sợ một ai

Kể cả Khơrutsốp, hay những người khác nữa

Một nhà thơ, tôi đích thực là mình

Tôi xin nói thật lòng, tôi khác họ.

(Stalin, Khơrutsốp – Hai lãnh tụ Liên Xô thời 1950 – 1964)

 

11. Lăng Stalin, rà bấu lao gần hâư

Thuồn t’ằng Khơrutsốp, rụ gần đai tó p’ận

Lẻ slấy sli, khỏi chính dử đang rà

Xo phuối chăn xình, rà táng  p’ậu.

 

12. Был молод и даль призывала меня:

«Черкесским седлом оседлай ты коня!»

А нынче понурился конь вороной,

Увидев тень посоха рядом со мной.

 

12. Chân trời xa vẫy gọi tôi thời trẻ :

“Thắng chiếc yên Checkét lên lưng ngựa đi anh !”

Nay ngựa gục đầu bên hố thẳm

Tôi nhận ra bóng chiếc gậy bên mình.

 

12. Tin vạ quây roọng hây slì ón

“Thảng an Checkét khửn lăng mạ nỏ chài!”

Này mạ cổm thua  pác rù rằng lẩc

Hây hăn ngàu ké  t’ậu xảng ai pha.

 

13. Я вижу: в человеческой природе

Нет постоянства, ибо там и тут                 

Доступные девицы нынче в моде

И песни те, что люди не поют.

 

13. Tôi nhận ra trong cõi sống người đời

Không ổn định,  bởi nơi này nơi nọ

Những cô gái ăn diện dễ gần

Những bài ca, loài người không hát nữa.

 

13. Hây ngòi hăn rằng  slổng  t’ởi  gần

Nắm an ỏn, nhoòng  t’ỉ  này  t’ỉ diển

Bại lủc slao chướng mỉnh thang rì

Bại tèo sli, nắm đảy chiềng  t’ồng  p’ửa.

 

14. Пред смертью горец молвил: «Я ни разу,

Как сын, не огорчил отца и мать.

Спасибо, рок, за эту благодать…»

О, мне б изречь им сказанную фразу!

 

14. Trước khi lìa đời, người miền núi nguyện cầu:

“Chưa lần nào con làm phiền cha mẹ

Xin chân thành cảm ơn số phận…”

Ôi, tôi chỉ muốn thốt lên như thế cho muôn nơi.

 

14. Slì ái thai, gần khau phja ngoòng mo:

“Dằng  p’ày  hâư lủc hất fàn pa mé

Xo chăn slim pjom bái mỉnh rà…”

Rôi, hây ái uổt rèng hẩư lai mường gằm mỉn.

 

15. Осознаю под небом Дагестана,

Беря в горах последний перевал,

Что, как поэт, явился слишком рано,

А стать пророком – слишком опоздал.

 

15. Tôi nhận thấy giữa trời Đaghextan

Thường xuất hiện những nhà thơ sớm sủa

Họ gìn giữ núi đồi xứ sở

Nhưng thành nhà tiên tri – lại quá muộn mằn.

 

15. Hây hăn chang hả Đaghextan

Lầng oóc nả bại slấy sli khoái mấư

Boong te dửc đin rà khau khuổi

T’ọ  p’ần  pú rủng – lẻ nhằng hâng!

 

16. Я воспевал не раз светильник ночи

И пел не раз светильник я дневной,

Но восторгаться ими нету мочи,

Когда твой лик сияет предо мной.

 

16. Tôi hay ngợi ca ngọn đèn đêm

Tôi cũng hay ngợi ca ngọn đèn ngày

Nhưng khi gương mặt em vụt đến

Thì những ngọn đèn kia bỗng mờ ngay.

 

16. Hây lầng d’ẳn nỏ nghé  t’ẻn gừn

Nghé  t’ẻn  uằn thư, hây tó d’ẳn

T’ọ  slì cương nả noọng phựt mà

Lẻ mả ngay nò sloong  t’ẻn  t’ỉ.

 

17. От альпинистов, от людей бывалых

Я знаю: спуск труднее, чем подъем.

Мне сорок лет, достиг я перевала,

Мой путь трудней и круче с каждым днем.

 

17. Kinh nghiệm nhà leo núi cho tôi biết

Đi xuống thường khó hơn đi lên

Tôi đã lên đèo lúc bốn mươi tuổi

Nay đường càng dốc hơn và khó khăn thêm.

 

17. Pỏn  t’ởi  pin khau hẩư hây hăn

Pây  t’ò  lồng nhộc hơn  t’ò  khửn

Hây khửn keng  p’ửa  slí slíp pi gần

Này khỏ them, nhoòng  t’àng gảng líng.

 

18. Поет у моего окошка ветер

Ту песню, что претит мне издавна;

А ту, что мне милей всего на свете,

Поет он у соседского окна.

 

18. Bên cửa sổ nhà tôi gió hát

Bài ca – tôi kinh tởm lâu rồi

Nơi cửa sổ nhà bên gió hát

Bài ca – tôi yêu nhất trần đời.

 

18. Xảng táng rườn rà lồm đỏi xướng

Tèo sli – rà đạ hăn oi sloi

Xảng táng rườn hâư lồm đỏi xướng

Tèo sli – rà hăn điếp đây lai…

 

19. С какой вершины я ни брошу камня,

Он вниз летит и пропадает там,                   

В какой низине песня б ни пришла мне,

Она летит к моим родным горам.

 

19. Trên đỉnh núi nào tôi cũng cầm đá ném

Hòn đá bay đi, rồi hòn đá rơi

Ở đồng  bằng nào tôi cũng có

Một bài ca bay lên núi quê tôi.

 

19. Nưa nhỏt khau  t’ầư  hây tó căm thin bẳn

Hỏn thin bân pây, t’iẻo  tốc lồng

Dú đin phiêng  t’ầư  hây tó mì đây đứa

Tèo sli bân mừa bản mường slung.

 

20. Смерть унесет и нас, и все, чем мы живем.

Избегнет лишь любовь ее прикосновенья.

Так ворон прочь летит, когда он видит дом,

Где в теплом очаге горят еще поленья.

 

20. Cái chết cuốn chúng ta đi cùng mọi thứ

Chỉ có tình yêu thoát được mà thôi

Con quạ đen bay đi mất hút

Khi thấy nhà có bếp lửa ấm ngời. 

 

20. Ăn thai p’ẳt boong rà oạ mọi vè pây thuổn

Tán ăn mằn ki ni đảy khói nò

Tua ca đăm rựt bân pây lặm khuổi

Slì te hăn rủng rường vỉnh vầy thư.

 

Triệu Lam Châu dịch

 

trieulamchau@gmail.com

 

ĐT: 0983 825502

 

(Theo Bản Nhà thơ, dịch giả Triệu Lam Châu gửi NBD)

 

 

10. Где восходит месяц рогом винным,
Слышал я от женщины одной:
«Тот родился в ухе буйволином,
Кто любви не ведал под луной».

10. Nơi trăng mọc lên như một chiếc sừng
Tôi nghe giọng đàn bà thủ thỉ :
“Tình yêu dưới trăng – những ai không biết giữ
Hẳn họ được sinh ra từ lỗ tai trâu?”

10. Hai rường nhó khửn  t’ồng  nghé coóc
Hây  t’ỉnh  nhìn hăn hênh nhỏi mẻ nhình
“Mì căn tẩư ngàu hai – cầư nắm dửc
Chăn tứ rù xu uài, boong te sleng?”

11. После Сталина я никого не боялся –
Ни Хрущева Никиты, ни прочих из них.
И собою самим, как поэт, оставался,
И при этом не врал я, в отличье от них.

11. Sau Stalin, tôi không sợ một ai
Kể cả Khơrutsốp, hay những người khác nữa
Một nhà thơ, tôi đích thực là mình
Tôi xin nói thật lòng, tôi khác họ.
(Stalin, Khơrutsốp – Hai lãnh tụ Liên Xô thời 1950 – 1964)

11. Lăng Stalin, rà bấu lao gần hâư
Thuồn t’ằng Khơrutsốp, rụ gần đai tó p’ận
Lẻ slấy sli, khỏi chính dử đang rà
Xo phuối chăn xình, rà táng  p’ậu.

12. Был молод и даль призывала меня:
«Черкесским седлом оседлай ты коня!»
А нынче понурился конь вороной,
Увидев тень посоха рядом со мной.

12. Chân trời xa vẫy gọi tôi thời trẻ :
“Thắng chiếc yên Checkét lên lưng ngựa đi anh !”
Nay ngựa gục đầu bên hố thẳm
Tôi nhận ra bóng chiếc gậy bên mình.

12. Tin vạ quây roọng hây slì ón
“Thảng an Checkét khửn lăng mạ nỏ chài!”
Này mạ cổm thua  pác rù rằng lẩc
Hây hăn ngàu ké  t’ậu xảng ai pha.

13. Я вижу: в человеческой природе
Нет постоянства, ибо там и тут                 
Доступные девицы нынче в моде
И песни те, что люди не поют.

13. Tôi nhận ra trong cõi sống người đời
Không ổn định,  bởi nơi này nơi nọ
Những cô gái ăn diện dễ gần
Những bài ca, loài người không hát nữa.

13. Hây ngòi hăn rằng  slổng  t’ởi  gần
Nắm an ỏn, nhoòng  t’ỉ  này  t’ỉ diển
Bại lủc slao chướng mỉnh thang rì
Bại tèo sli, nắm đảy chiềng  t’ồng  p’ửa.

14. Пред смертью горец молвил: «Я ни разу,
Как сын, не огорчил отца и мать.
Спасибо, рок, за эту благодать…»
О, мне б изречь им сказанную фразу!

14. Trước khi lìa đời, người miền núi nguyện cầu:
“Chưa lần nào con làm phiền cha mẹ
Xin chân thành cảm ơn số phận…”
Ôi, tôi chỉ muốn thốt lên như thế cho muôn nơi.

14. Slì ái thai, gần khau phja ngoòng mo:
“Dằng  p’ày  hâư lủc hất fàn pa mé
Xo chăn slim pjom bái mỉnh rà…”
Rôi, hây ái uổt rèng hẩư lai mường gằm mỉn.

15. Осознаю под небом Дагестана,
Беря в горах последний перевал,
Что, как поэт, явился слишком рано,
А стать пророком – слишком опоздал.

15. Tôi nhận thấy giữa trời Đaghextan
Thường xuất hiện những nhà thơ sớm sủa
Họ gìn giữ núi đồi xứ sở
Nhưng thành nhà tiên tri – lại quá muộn mằn.

15. Hây hăn chang hả Đaghextan
Lầng oóc nả bại slấy sli khoái mấư
Boong te dửc đin rà khau khuổi
T’ọ  p’ần  pú rủng – lẻ nhằng hâng!

16. Я воспевал не раз светильник ночи
И пел не раз светильник я дневной,
Но восторгаться ими нету мочи,
Когда твой лик сияет предо мной.

16. Tôi hay ngợi ca ngọn đèn đêm
Tôi cũng hay ngợi ca ngọn đèn ngày
Nhưng khi gương mặt em vụt đến
Thì những ngọn đèn kia bỗng mờ ngay.

16. Hây lầng d’ẳn nỏ nghé  t’ẻn gừn
Nghé  t’ẻn  uằn thư, hây tó d’ẳn
T’ọ  slì cương nả noọng phựt mà
Lẻ mả ngay nò sloong  t’ẻn  t’ỉ.

17. От альпинистов, от людей бывалых
Я знаю: спуск труднее, чем подъем.
Мне сорок лет, достиг я перевала,
Мой путь трудней и круче с каждым днем.

17. Kinh nghiệm nhà leo núi cho tôi biết
Đi xuống thường khó hơn đi lên
Tôi đã lên đèo lúc bốn mươi tuổi
Nay đường càng dốc hơn và khó khăn thêm.

17. Pỏn  t’ởi  pin khau hẩư hây hăn
Pây  t’ò  lồng nhộc hơn  t’ò  khửn
Hây khửn keng  p’ửa  slí slíp pi gần
Này khỏ them, nhoòng  t’àng gảng líng.

18. Поет у моего окошка ветер
Ту песню, что претит мне издавна;
А ту, что мне милей всего на свете,
Поет он у соседского окна.

18. Bên cửa sổ nhà tôi gió hát
Bài ca – tôi kinh tởm lâu rồi
Nơi cửa sổ nhà bên gió hát
Bài ca – tôi yêu nhất trần đời.

18. Xảng táng rườn rà lồm đỏi xướng
Tèo sli – rà đạ hăn oi sloi
Xảng táng rườn hâư lồm đỏi xướng
Tèo sli – rà hăn điếp đây lai…

19. С какой вершины я ни брошу камня,
Он вниз летит и пропадает там,                   
В какой низине песня б ни пришла мне,
Она летит к моим родным горам.

19. Trên đỉnh núi nào tôi cũng cầm đá ném
Hòn đá bay đi, rồi hòn đá rơi
Ở đồng  bằng nào tôi cũng có
Một bài ca bay lên núi quê tôi.

19. Nưa nhỏt khau  t’ầư  hây tó căm thin bẳn
Hỏn thin bân pây, t’iẻo  tốc lồng
Dú đin phiêng  t’ầư  hây tó mì đây đứa
Tèo sli bân mừa bản mường slung.

20. Смерть унесет и нас, и все, чем мы живем.
Избегнет лишь любовь ее прикосновенья.
Так ворон прочь летит, когда он видит дом,
Где в теплом очаге горят еще поленья.

20. Cái chết cuốn chúng ta đi cùng mọi thứ
Chỉ có tình yêu thoát được mà thôi
Con quạ đen bay đi mất hút
Khi thấy nhà có bếp lửa ấm ngời. 

20. Ăn thai p’ẳt boong rà oạ mọi vè pây thuổn
Tán ăn mằn ki ni đảy khói nò
Tua ca đăm rựt bân pây lặm khuổi
Slì te hăn rủng rường vỉnh vầy thư.

Triệu Lam Châu dịch

trieulamchau@gmail.com

ĐT: 0983 825502

(Theo Bản Nhà thơ, dịch giả Triệu Lam Châu gửi NB�

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *