Tổ quốc thiêng liêng tha thiết biết nhường nào. Dù đi đâu, ở đâu hay làm bất cứ việc gì, khi nhắc đến hai tiếng Tổ quốc,
mọi con dân Việt Nam đều thiết tha, cháy bỏng tâm can.
Từ cột mốc đơn sơ
Qua lời giới thiệu của đại tá Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh Nguyễn Trọng Thường, chúng tôi cùng với tổ trinh sát thực hiện chuyến “Tây du”, ngược ngàn lên vùng biên giới Việt – Lào, nơi lực lượng cắm mốc của cả 2 nước đang chuẩn bị cắm điểm cột mốc biên giới cuối cùng cho kịp đón xuân trên dải biên cương thân yêu của Tổ quốc.
Đường lên biên giới gồ ghề đèo dốc, vực thẳm, ngồi trên chiếc u-oat nhiều lúc cứ tưởng như hất tung người ra khỏi thùng xe. Đến dốc Vũ Quang, nơi còn lại ký ức một thời oanh liệt của tướng quân Phan Đình Phùng trấn giữ biên ải, rồi qua cầu Mạn Chạn, sang bản Cò là hết đường lui tới, bởi trước mặt là cả một ngọn núi dựng đứng như chia cắt ngang trời. Đoàn tạm nghỉ chân, đợi trinh sát định hướng hành quân bằng cách “cuốc bộ”. Chỉ sau mấy phút, đại tá, Tham mưu trưởng Nguyễn Huy Trung chỉ huy chuyến đi này cũng là chỉ huy của cả đợt cắm mốc phát lệnh “vượt rừng”. Thế là cả đoàn lỉnh kỉnh tay xách, nách mang, nào gạo, nào nước, lương khô, bánh mỳ… theo hướng ngược rừng mà đi.
Nơi anh đứng gác là Tổ quốc
Vừa hành quân được một quãng, chiến sĩ trẻ đi cạnh tôi nói nhỏ: “Nhà báo chuẩn bị tinh thần để lội bộ 4 ngày đêm ròng rã đó”. Nghe chuyện phải lội rừng 4 ngày đêm, phần nào tôi cũng lo lo nhưng tinh thần vẫn hăng hái bởi đích của chuyến đi là cột mốc 496 – cột mốc duy nhất còn lại ở độ cao hơn 2.200 m, thuộc địa phận xã Hương Quang, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đó, các chiến sĩ Biên phòng Việt Nam và Biên phòng Lào đang mong đoàn lên để tiến hành lễ ký kết cắm cột mốc cuối cùng giữa 2 nước Việt – Lào. Mặc dầu đèo cao, suối sâu, vực thẳm, thời tiết ở Trường Sơn thật đỏng đảnh lúc mưa, lúc nắng, sên vắt bám đầy chân tay, quần áo ướt rồi lại khô, khô rồi lại ướt, nhưng may có mấy anh lính trẻ thỉnh thoảng lại cất lên tiếng hát làm “liều thuốc tinh thần” cổ vũ mọi người bấm chắc chân để vượt dốc.
Đêm Trường Sơn lạnh cắt da thấu thịt. Chúng tôi phải cắm lán, đốt lửa trại ngủ giữa rừng. Đại tá Trung kể về chuyện cắm mốc biên giới xưa và nay cho tôi nghe: Năm 1977, hai nước Việt Nam – Lào bắt đầu hoạch định cắm mốc phân ranh giới giữa hai nước với chiều dài trên 2.067 km. Mốc đầu tiên được xuất phát từ miền cực Bắc của Tổ quốc thuộc huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Hệ thống cột mốc từ đó kéo dài suốt qua các tỉnh biên giới, đến Hà Tĩnh rồi vào tận mãi các tỉnh phía Nam. Mốc đầu tiên ở Hà Tĩnh được cắm tại khu vực biên giới xã Sơn Hồng, giáp với tỉnh Bôlykhămxay.
Cũng theo đại tá Trung, lúc bấy giờ chỉ có lực lượng công an vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng) ta và bạn thực hiện ký kết giữa chính phủ 2 nước. Sau khi phân định xong, phía Việt Nam giao lực lượng Công an vũ trang các tỉnh biên giới phối hợp song phương với lực lượng nước bạn cắm tạm các cột mốc. Lúc này Công an vũ trang Hà Tĩnh cử Thượng úy Đoàn Minh Trị (sau này ông mang hàm Đại tá, Phó chỉ huy trưởng bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh) làm tổ trưởng tổ cắm mốc. Những cột mốc dã chiến được dựng lên và cũng từ đó lực lượng Biên phòng 2 nước luôn xem đường biên giới là chiếc cầu nối tình hữu nghị anh em 2 nước Việt – Lào, thường xuyên tổ chức phối hợp các đợt tuần tra song phương nhằm bảo đảm bảo an ninh lãnh thổ của cả 2 đất nước.
Các chiến sĩ tuần tra song phương
Đến cột mốc hiện đại
Thực hiện kế hoạch tôn tạo, tăng dày mốc giới của Ủy ban Liên hiệp phân giới cắm mốc Việt Nam – Lào, cuối năm 2008, lực lượng hai nước thực hiện công tác chuẩn bị, đến đầu năm 2009 các cột mốc lần lượt được cắm xuống. Sau gần 5 năm băng rừng lội suối, cơm đùm cơm nắm, đến nay lực lượng cắm mốc 2 nước đã khảo sát, cắm xong thực địa 53/54 mốc, bắt nguồn từ cột 463-515 với tổng chiều dài hơn 145 km từ Nghệ An đến Quảng Bình, giáp với 2 tỉnh Khăm muộn và Bôlykhămxay (Lào). Trong số 54 mốc có 53 mốc chính và 1 mốc phụ đặt ở xã Sơn Hồng, huyện Hương Sơn. Dự kiến mốc phụ này cũng sẽ hoàn tất trước Tết cổ truyền dân tộc.
Được biết, tham gia các đợt cắm mốc ở phía ta có đại diện Bộ Tài nguyên – Môi trường, các Sở ban ngành trong tỉnh Hà Tĩnh, nhưng lực lượng chính vẫn là Bộ đội biên phòng, các đồn đóng trên địa bàn.
Những ngày đầu mới bắt tay thực hiện, do điều kiện địa hình phức tạp, rừng núi hiểm trở, độ dốc lớn, nhiều vị trí mốc như ở dốc Bà Mụ giáp xã Sơn Hồng, Sơn Kim 2 (Hương Sơn), các dốc ở xã Hương Quang, huyện Vũ Quang… tất cả đều nằm ở độ cao trên 1.600 m, có những vị trí cao trên 2.200 m chưa hề có đường đi lại, xa dân cư nên anh em phải sử dụng đường đi từ phía nước bạn mới tiếp cận nổi. Phần khó khăn nữa là, trong lúc công việc còn ngổn ngang lại phải rút một bộ phận vào giúp đội Quảng Bình 6 tháng ròng nên công việc phần nào bị ảnh hưởng, số anh em còn lại phải bám trụ ở những điểm xung yếu. Mặc dầu khó khăn chồng lên khó khăn nhưng nhờ được sự quan tâm của các bộ ngành Trung ương, lãnh đạo 3 tỉnh nói trên nên nhiệm vụ cắm mốc của đội Hà Tĩnh vẫn về đích sớm nhất so với toàn tuyến.
Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn
Chuyện kể ở cột mốc cuối cùng
Sau 3 ngày vượt rừng, chuyện kể của đại tá Trung rồi cũng xa dần, xa dần để lại phía sau bao nhiêu kỷ niệm, đến cả “…Một bông hoa chuối đỏ/ Một tiếng họa mi nghe cũng cháy lòng”. Đọc thơ Thái Giang từ thuở còn ngồi trên ghế nhà trường, nay tôi thực sự mới được tận mắt chứng kiến cảnh vật núi rừng thiên nhiên hùng vĩ với con người thân thương biết nhường nào. Tuy cột mốc chúng tôi cần đến chỉ còn cách xa chưa đầy nửa ngày đi bộ nữa nhưng lúc này hoàng hôn bắt đầu buông xuống nên cả đoàn phải tiếp tục ngủ lại giữa rừng. Tôi đang đứng ngẩn ngơ trước cánh rừng bao la gỗ quý, bỗng giật mình khi tiếng con hoẵng kêu toang toác ngay cạnh gốc cây đoàn đang tập kết. Mọi người đều có chung cảm nhận, thiên nhiên và con người chốn biên viễn này quá là gần gũi. Càng về khuya, núi rừng càng u tịch. Xa xa là tiếng hú của bầy vượn, tiếng chí chóe gọi bầy của lũ khỉ, tiếng gọi đàn của các loài muông thú, lòng tôi cảm thấy xốn xang khi nghĩ về những người lính biên phòng ngày đêm bồng súng đứng gác ở những nơi đèo heo hút gió này. Họ sẵn sàng hiến trọn cả tuổi xuân xanh cho non sông đất nước.
Theo như thường lệ, qua một đêm nghỉ ngơi, sáng sớm tinh mơ cả đoàn đều đón nhận được lời động viên cổ vũ của vị đại tá, tham mưu trưởng: “Anh em cố nữa lên, chỉ còn nửa ngày đường nữa là tới mốc 496 rồi đó”. Tôi linh cảm, trong lời động viên của đại tá Trung có điều gì đó như nhắc mọi người phải cẩn thận trong từng đường đi nước bước, bởi trước mắt là dốc đá hiểm trở, nếu không cẩn thận, lỡ trượt chân ngã xuống, những mỏm đá tai mèo nhọn hoắt như những mũi đao chọc trời ấy sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng. Thật lòng mà nói, về kinh nghiệm đi rừng, có lẽ đối với một nhà báo như tôi cũng chẳng thua kém gì các chiến sĩ biên phòng là mấy. Khi cả đoàn trèo qua được phiến đá tai mèo hiểm trở, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm, dừng lại mấy phút để hoàn hồn. Ngước mắt nhìn lên phía trước vẫn là những mái đá tai mèo dựng đứng. Phía dưới là vực sâu thăm thẳm, nước xanh như mắt mèo. Trèo lên tụt xuống hàng chục lần, người trước nắm tay người sau, vắt ốc mà đi, cuối cùng đoàn chúng tôi cũng chạm đích cột mốc kỳ bí nhất. Chưa kịp thở phào xả hơi thì toàn bộ anh em bám trụ từ lâu ở đây đã ùa ra ôm chầm lấy chúng tôi tay bắt mặt mừng.
Chúng tôi xúm quanh bên cột mốc, thượng úy Cao Hữu Hóa nhớ lại những ngày đầu vất vả gian nan khi đi khảo sát thực địa. Thượng úy Hóa kể: Khi tiếp nhận chỉ đạo khảo sát cột mốc này, tổ công tác của chúng tôi gồm chục cán bộ chiến sĩ, khảo sát xong vị trí đặt mốc, trên đường trở về, gặp phải một cơn lũ bất thường, đúng lúc này, toàn bộ lương thực mang theo đã cạn kiệt, anh em phải nhịn đói nằm chờ nước rút hi vọng mới thoát khỏi tử thần. Bằng mọi biện pháp nghiệp vụ, chúng tôi liên lạc về Bộ chỉ huy và được lệnh chờ tiếp tế bằng con đường huy động một số người dân sở tại vượt rừng lên cứu tế. Lương thực cứu tế chỉ có mì tôm, lương khô, bánh mì nhưng do vì phải nhịn đói nhiều ngày, sống nhờ củ rừng, hoa chuối nên khi tiếp nhận đồ ăn từ miền xuôi anh em trong đội ai nấy mắt sáng quắc lên, ăn lấy ăn để. Sau hơn 5 ngày nước rút, cả đoàn phải nhích dần từng đoạn mới trở về đơn vị an toàn.
Nơi cột mốc chạm trời!
Đội trưởng đội căm mốc tỉnh Xavanakhệt Xóm Văng Bun Nã Phay nói với chúng tôi: “Các bạn Việt Nam có biết không, tại điểm này có độ cao nhất biên giới giữa Lào và Việt Nam đó. Người Lào bây giờ cũng mới đến đây lần đầu. Đứng ở độ cao này, phóng tầm mắt thật xa để chiêm ngưỡng cả hai đất nước Lào – Việt thật bao la hùng vĩ”.
Thượng úy Hóa cho hay: “Thật may cho đoàn ta là mang theo được ít thức ăn, nước uống chứ ở độ cao này, nấu cơm không thể chín, anh em bám trụ ở đây, hàng ngày phải xuống núi mới có cơm ăn”.
Mốc 496 ở độ cao 2.200 m
Được biết, để gắn được cột mốc vào nơi quy định này, cả phía bạn và ta phải trăn trở lên xuống, đi lại rất nhiều lần nhằm đối chiếu tọa độ, hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý, nhất là việc vận chuyển cột mốc. Quá trình vận chuyển phải mất gần 2 tháng trời, bao gian nan vất vả đều được đẩy lùi về phía sau, khi cột mốc hiển diện đứng ngạo nghễ ở độ cao trên 2.200 m, ai nấy mừng vui khôn xiết.
Trước lúc cắm mốc, đoàn bạn và đoàn ta phải dùng máy GPS gắn vào đầu cột mốc, đo bằng định vị vệ tinh toàn cầu, kiểm tra mọi thông số kỹ thuật đến hàng mấy tiếng đồng hồ. Tôi nhớ mãi phút giây thiêng liêng nhất, khi Quốc ca của 2 nước Việt – Lào được cất lên giữa núi rừng, nghe sâu thẳm đến vô tận. Sau Quốc ca là những mẻ bê tông được trộn đều đổ xuống. Đại diện cho phía Việt Nam là đại tá tham mưu trưởng Nguyễn Huy Trung; đại diện phía nước bạn Lào là trung tá Xóm Văng Bun Nã Phay đổ mẻ bê tông đầu tiên xuống cột mốc, như chôn chặt thêm mối tình hữu nghị keo sơn anh em của nhân dân hai nước Việt – Lào.
Tạm biệt núi rừng Trường Sơn hùng vĩ, trên đường trở về lại miền xuôi, cũng là lúc cả núi rừng vạn vật cây cối đang e ấp những chồi non lộc biếc, báo hiệu một mùa xuân mới lại về. Tôi đứng ngoái nhìn lại phía sau, cả dãy cột mốc biên giới Việt – Lào dày như đoàn quân trùng điệp theo chiều dài đất nước. Trong sâu thẳm mọi người, mỗi cột mốc là mỗi chiến sĩ ngày đêm bồng súng đứng gác nơi Trường Sơn chót vót để giữ sự bình yên cho Tổ quốc vào xuân.
Trường Sơn những ngày áp tết 2013
Anh Bình