Trên báo Văn Nghệ hai số 7 và 8/2013 có in bốn bài viết ca ngợi ba tập thơ được giải và một tập phê bình được giải văn học của Hội nhà văn Việt Nam 2012:
“QUAY VỀ LỜI NỀN TẢNG – Đọc “trường ca chân đất” của Thanh Thảo” của Nguyễn Chí Hoan, “Phạm Đương, người đi trên dây” của Đặng Huy Giang, “Trần Quang Quý và sự ám ảnh hiện hữu” của Mai Vũ và “Mấy suy nghĩ cùng “Đa cực và điểm đến” viết về tập phê bình được giải của Nguyên An…
Nếu thày giao chấm điểm văn là bạn đọc ra bốn đề văn như sau:
“Em hãy phân tích và chứng minh “trường ca chân đất” của Thanh Thảo hay hay dở? Vì sao hay, vì sao dở”
Cũng đề này được ra cho ba tập tiếp: “Giờ thứ 25” của Phạm Đương, “Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy, “Đa cực và điểm đến” của Văn Chinh.
Qua bài viết, tức bài tập làm văn của các tác giả: Nguyễn Chí Hoan, Đặng Huy Giang, Nguyên An và Mai Vũ… không chứng minh được bốn tập này là tập hay, ngược lại nó vô tình (hay cố ý) đều cho rằng ba tập thơ và một tập phê bình này đều nhàn nhạt, vô bổ, nghĩa là thậm dở.
Nếu các vị này cố chứng minh các tập thơ trên hay thì độc giả là ông thầy chỉ có thể cho các vị điểm ngỗng (tức 2 điểm).
Xin trích một đoạn trong bài viết của Nguyễn Chí Hoan; ông này đã trích ra đoạn thơ bậy bạ, dở nhất, dễ dãi nhất, tầm phào nhất của “Trường ca chân đất” của Thanh Thảo để khen hết lời thơ Thanh Thảo hay tuyệt như sau:
“Nét riêng trong cái nhìn mà trường ca này khai triển là dựa trên sự nhấn mạnh cái vẻ thô mộc đó, dùng sự nhấn mạnh đó theo kiểu xây dựng các mô-típ trong mỹ nghệ dân gian; chẳng hạn như ở đoạn trích dưới đây.
bác Năm Trì tàng tàng tàng
bác Năm Trì dân Quảng Ngãi
đêm láng lênh bác ngồi gãi háng
trăng hạ tuần
nhớ lung mung
hình như tổ tiên mình có cái chén mẻ
gửi đâu đó bên dưới đế tháp Chàm
những ngọn tháp chỉ còn trong ký ức
Với nhịp điệu đan xen lối nói vần điệu dân dã tựa như “hát nói” và nhịp thơ tự do, đoạn thơ trên đây dựng lên ba hình ảnh: ông nông dân ngồi, ống quần rộng kéo quá đùi – mảnh trăng hạ tuần (xế/chếch) ngang đầu – nhìn sang ngang hình kỷ hà một ngọn tháp ước lệ làm nền cho hình đậm chiếc bát ăn cơm sứt mẻ; và chi tiết động tác “gãi háng” khiến thấy hình ông nông dân là một ảnh thực bên cụm ước lệ trăng-tháp có điểm nhấn bố cục là cái bát mẻ.
Tư thế và động tác trong hình ảnh này của nhân vật bác Năm Trì chính là điểm bộc lộ sự nhấn mạnh vào tính thô mộc của biểu đạt; và theo truyền thống, hình ảnh và động tác đó, như thể một vai hề gậy, biểu thị thái độ phản biện, phản kháng hay nhẹ nhất cũng là một cái cười mai mỉa, một lời chất vấn hay tự vấn. Và tính chất một mô-típ tạo hình ở đoạn thơ khiến có thể loại bỏ hoặc giới hạn phương diện “tục” trong cái “thô”, hay nói cách khác, là đưa cái “tục” với liều lượng được kiểm soát để biểu hiện sức phản kháng trước đau khổ bất bình, cũng là cái cười biểu thị hy vọng.
(hết trích)
Nguyễn Chí Hoan đã chọn khổ thơ dễ dãi nhất, tầm phào bậy bạ nhất, dở nhất của Thanh Thảo để khen lên mây, dùng làm thí dụ cho “thi pháp gãi háng” thành trường thơ của “Trường ca chân đất”, đôn cái dở nhất thành hay nhất, tục tĩu nhất thành thanh tao nhất… để tha hồ tào lao xích bột, tán nhảm, bình càn, y như một kẻ không bình thường, hoặc một tay tấu hài hạng bét trong làng chọc cười, chọc quê…
Về việc này, vừa qua nhà thơ trẻ Thanh Tre, sau khi đọc bài bình có một không hai của Nguyễn Chí Hoan tâng bốc “Trường ca chân đất” của Thanh Thảo, đã gửi cho kẻ viết bài này đoạn thơ mô phỏng thơ “gãi háng” trên mà Thanh Tre thi sĩ cho là mình đã vượt qua thơ Thanh Thảo; xin trích thơ của tác giả Thanh Tre:
“Cô Sáu He cà lăm cà lăm cà lăm
Cô Sáu He quê Rạch Giá
Khuya trăng lu cô ngồi gãi mu
Sao Hôm mắc cỡ tắt ngúm
Cô vừa gãi mu vừa nhớ con chim cu
Thương bà cố nội cô có cái váy tổ đỉa
Chiếc váy còn phơ phất chiêm bao”
Trần Mạnh Hảo tôi xin mô phỏng lối bình thơ tấu hài của Nguyễn Chí Hoan mà bình đoạn thơ diễm lệ của thi sĩ Thanh Tre như sau:
“Từ “thi pháp gãi háng” tả thực của thi sĩ Thanh Thảo, thi sĩ Thanh Tre đã vượt qua cái bóng tiền bối mà nâng thơ lên thành “thi pháp gãi mu” hư ảo vô cùng, hàm súc dư ba. “Mu” của cô Sáu He so với “Háng của bác Năm Trì” sâu sắc và đa ngữ nghĩa hơn nhiều. Háng, nói cho cùng chỉ có nghĩa đen mà thiếu nghĩa bóng, chỉ có xác mà thiếu cái hồn. Háng của bác Năm Trì chợt biến thành chân tường của thi ca. Nhưng hình ảnh “Mu của cô Sáu He” thì vừa có không gian vừa có cả thời gian. Từ hình ảnh “Mu” thơ được mở ra không chỉ ba chiều (ba góc = “chành ra ba góc dư còn thiếu-
Hồ Xuân Hương”), bốn chiều mà đa chiều, vô chiều khiến hồn người đọc cũng được hút vào thiên đường khoái lạc mà “mu” chính là cửa vào cực khoái thi ca. Hỏi có ai không bước ra từ cửa của cái mu này…? Mu là hình tượng cong đầy múp míp vòm trời. Các chân trời, các đụn cát, các vòm đồi, các đỉnh núi đều mô phỏng sự cong nẩy của mu cô Sáu He mà mơn mởn “tùm hum nóc” như thơ Hồ Xuân Hương…
Cám ơn thi sĩ Thanh Tre đã mang đến cho thi ca một “cái mu” thi pháp làm hầm trú ẩn cho thi ca muôn đời thập thò cua cáy nhân sinh. “Mu” trở thành vương miện của vương quốc sex mê ly kiếp người; “mu” chợt được thi sĩ Thanh Tre nâng lên thành triều thiên của thi ca tưởng thô tục mà cao sang vô tận. “Mu” không chỉ là thi pháp thơ mà còn là phạm trù thơ, hang hốc thơ, tiên thiên thơ, qủy cốc thơ…
Xin cám ơn “thi pháp gãi háng” của thi sĩ Thanh Thảo đã gợi cho thi sĩ Thanh Tre viết được câu thơ vĩ đại: “Khuya trăng lu cô ngồi gãi mu”. Thơ đang bay vùn vụt chợt đụng vào “háng” thì thơ dù đã học được phép xuyên tường cũng phải dừng lại, bởi vì sau háng là xương cứng như sắt mà thơ không thể gặm. Nhưng sau “Mu” thì quả là còn vô cùng thế giới, là thiên đường của thi ca, nơi thi ca lên đỉnh Vu Sơn khoái lạc chợt hét lên, rú lên niềm thú tính con người… Thơ, nói cho cùng phải đạt đến mức sướng muốn chết….”
Cứ đà bình kiểu Nguyễn Chí Hoan này, có thể xuất hiện một luận án tiến sĩ về thi pháp thơ ca: Thơ trong quá trình tiến hóa từ “thi pháp gãi háng” tả thực sang “thi pháp gãi mu” hư ảo… Nguyễn Chí Hoan, hiện là trưởng ban lý luận phê bình báo Văn Nghệ nếu làm luận án tiến sĩ về đề tài này chắc chắn sẽ được hội đồng giáo sư phản biện vỗ tay vang trời. Trần Mạnh Hảo xin biếu không ý tưởng này cho ông Hoan, chỉ xin một li café nâu nhuận bút mà thôi…
Chúng tôi xin trích một đoạn trong bài: “Phạm Đương người đi trên dây” của nhà thơ Đặng Huy Giang, bốc thơm tập thơ “Giờ thứ 25” (tên tập thơ ăn cắp tên của cuốn tiểu thuyết lừng danh thế giới của văn hào C. Gheorghiu) như sau:
“Ở đâu đó, ta bắt gặp một lối diễn đạt mạnh bạo: Từng cơn gió dại chưa tiêm phòng/phập vào anh những dấu răng chí mạng (Gió dại); một cách diễn đạt cô đọng như châm ngôn: Không một nhà tù nào có thể nhốt được khát vọng/không một xiềng xích nào có thể giam được cái ác (Hạt thóc và bom); một cách nói rất khác: Tôi bị chiều luộc chín từng khúc/bằng chiếc nồi áp suất nhớ nhung (Khuya 1), tôi dát mỏng sự tử tế hiếm muộn của mình/liền gặp ngay một cơn thịnh nộ/đừng nhân danh lòng tốt, bạn ạ và đáng nói hơn là một cách nhìn khác.
Tiêu biểu cho cách nhìn khác được bộc lộ sinh động qua Lính đất Mũi. Đây là bài thơ độc đáo, mang nặng chất phát hiện của Phạm Đương:
Từ độ cao mười mét
những chiếc dù bung ra
rồi bám vào đất mà thở
rồi bám vào biển thành nhà
ở đây không cần khẩu lệnh
vẫn hàng ngang hàng dọc thẳng đều
cứ thấy bùn là tiến
nhìn triều xuống mà theo
giăng mắc ngang chiều những
sư đoàn binh đoàn
âm thầm cắm rễ
giăng mắc ngang trời nơi cửa sông
câu ca mở cõi
khoác trên vai những người lính nơi này
bộ quân phục phù sa
mang về từ châu thổ
phía trước mặt là bước chân mở đất
phía sau lưng là đôi tay giữ nước
trĩu nặng hai vai đất đai Tổ quốc
những – người – lính – đước.
Có lẽ, chưa có người làm thơ nào viết về những cây đước khái quát và khác lạ đến vậy.
Tất nhiên, Phạm Đương không chỉ có Lính đất Mũi mà còn có Biên tập, Tạp âm, Những mảnh vỡ, Trong đáy cốc, Gió dại, Hạt thóc và bom… nữa.
Đây là những câu ấn tượng trong Hạt thóc và bom:
Chúng ta cười vui chúng ta mếu máo
chỗ này tung hô chỗ kia lếu láo
chúng ta đang đi trên những chiếc dây
căng qua đời sống
tìm sự thăng bằng giữa hạt thóc và bom.
(hết trích)
Những câu thơ Phạm Đương (nhại thơ TÂN CON CÓC lẩn thẩn, lảm nhảm của Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều) trên đây do Đăng Huy Giang trích ra khen đều là những câu đại ngôn, sáo mới, sến, dễ dãi, thậm chí nhảm nhí, tầm phào há không phải là phê bình tấu hài hay sao?
Trần Mạnh Hảo xin mượn mấy câu thơ dễ dãi, đại ngôn và khiên cưỡng lại buồn cười của Phạm Đương do Đặng Huy Giang khen hay để giễu nhại cho đỡ tẻ:
“Từng cơn gió dại chưa tiêm phòng
phập vào anh những dấu răng chí mạng” (P Đ)
“Từng tên ác dâm chưa bị hoạn
Phập vào em những dấu chim chết ngất” (thơ nhái)
“Tôi bị chiều luộc chín từng khúc
bằng chiếc nồi áp suất nhớ nhung” (P Đ)
“Tôi bị đêm rán thành mỡ
Bằng chiếc chảo em yêu” (thơ nhái)
“Không một nhà tù nào có thể nhốt được khát vọng
không một xiềng xích nào có thể giam được cái ác” (P Đ)
“Không một bướm em nào nhốt được anh chim
Không một cái chai nào có thể nhốt được rượu tình (thơ nhái)
Mai Vũ trong bài: “Trần Quang Quý và sự ám ảnh hiện hữu” ca ngợi tập thơ “Màu tự do của đất” lên mây bằng trích ra toàn thứ thơ dễ dãi, sáo rỗng, cùn mòn, nói lấy được, chẳng cần hàm súc, dư ba, chẳng cần hình tượng, hình ảnh, biểu tượng, rất dở, cứ tràn ra vô tội vạ như nước cống:
“Ngoặc đơn tác giả viết: “Nỗi buồn trong cấu trúc cô đơn/ chiếc ngoặc mong manh gông cùm phận chữ/những con chữ một đời vai phụ/những con chữ chỉ giản dị làm phu giải nghĩa/cũng một đời thèm/tháo ngoặc/Tự Do!”.
“Tôi đọc trên đất những bước đi ngắn, những bước đi dài/những khi bước thấp, những khi bước cao/bài học ban đầu/thuở còn lẫm chẫm/trang sách nhân gian đất bày vô tận/…Một đời khát vọng/tìm gió/theo mây/mới hay mọi điều học ngay từ đất” (Từ đất)
Ánh sáng của một ngày tự thức/ánh sáng len lỏi vào ngõ quen, vào ngóc ngách vô cảm/đánh thức bản nguyên/cởi nút thắt bóng tối nằm hoang muội trong bức tường câm thức/Ánh sáng dẫn tôi bò qua những con dốc nhịp thở/gõ cửa trái tim cảm hứng/bánh xe trật tự khởi quay/và bật dậy trong tôi những lãng quên biền biệt chân trời… ánh sáng khoan thoai trong khung cửa ngộ thức/hình như tôi vừa tự mở khóa mình”.
“Tôi đọc trên đất những bước đi ngắn, những bước đi dài/những khi bước thấp, những khi bước cao/bài học ban đầu/thuở còn lẫm chẫm/trang sách nhân gian đất bày vô tận/…Một đời khát vọng/tìm gió/theo mây/mới hay mọi điều học ngay từ đất”
Các nàng liếc nhìn tôi bằng sâu thẳm bầu trời thị giác/bằng cả những phía sau cong mi… Tôi đi qua ngàn năm để đỏng đảnh một chiều váy ngắn… Sông hổn hển kể những ngày nàng thôn nữ ra bến quê giặt yếm/khỏa những nụ cười duyên/giặt cái dịu dàng, giặt phồn thực/các nàng giặt tôi, kì cọ tôi bằng chiều quê cổ điển/bằng cổ tích Ba Vì, bằng cả bây giờ quần jean, tóc hấp”: “Trong mắt rắn, dĩ nhiên rồi ta cũng loài rắn/ngôn ngữ của trườn bò…Trong mắt bầy khuyển kia, làm sao khác ta cũng thành đồng loại/ những cơn tru hoang (tiếng người hóa dại)/ngày thấp thỏm quạ kêu, đêm chập chờn cú rúc/những con mắt gài quanh bờ giậu/lách nhách cắn bóng đêm hay tự sủa phận mình/có cái chết trong bầm rập vết răng đồng loại/có bước chân côi cút lẻ bầy” (Đồng loại)”
Mai Vũ đưa thơ dở của Trần Quang Qúy ra ca ngợi lại chẳng phải là phê bình tấu hài hay sao?
Nhà phê bình Hoài Thanh đã dặn hậu thế đại để như sau: đọc bài phê bình thơ mà thấy trích ra toàn thơ dở để khen lên mây, thì bài ấy không có giá trị gì cả. Ta nên đọc các câu trích trước, rằng thơ trích ra khen mà hay mới đọc, còn trích toàn thơ dở ra khen thì nên ném bài bình thơ ấy vào sọt rác.
Nguyên An trong bài viết: “Mấy suy nghĩ cùng “Đa cực và điểm đến” khen cuốn phê bình được giải của Văn Chinh hết lời mà không hề chứng minh. Nguyên An chưa có đủ trình độ phân biệt được đâu là văn báo chí đâu là văn phê bình văn học nên mới viết lung tung như vậy. Cuốn sách này của Văn Chinh dù viết về đề tài văn học nhưng chỉ là những bài điểm báo, điểm sách thuộc thể loại báo chí chứ chưa thể gọi là phê bình văn học được.
Nguyên An dành cả bài viết dài để khen con vịt giống con thiên nga thì không phải là phê bình tấu hài thì còn là gì nữa…
Hi vọng, báo Văn Nghệ nên tiếp tục in loại phê bình tấu hài để giải khuây thiên hạ; đang buồn ngủ lại gặp chiếu manh mới khoái chí làm sao .,.
Sài Gòn ngày 14-3-2012
Trần Mạnh Hảo
(Dân luận)