Nhìn lại cuộc đời lao động nghệ thuật không ít sóng gió qua nhiều giai đoạn của Hoàng Yến, nhiều người thường nhắc tới những huy chương vàng và huy chương bạc dành cho các tác phẩm sân khấu của ông.
Cố nhiên, những đóng góp của Hoàng Yến trong lĩnh vực nghệ thuật này là lớn và quý, nhất là khi ngành nghệ thuật sân khấu ở nước ta vào thời ấy chưa có nhiều kinh nghiệm mà cũng chưa thu được những thành tựu đáng nể trọng như sau này. Nhưng có lẽ sự nghiệp lớn nhất, lấy của ông nhiều tâm huyết nhất lại chính là văn chương.
Tôi có cơ may quen biết nữ sỹ Hiền Phương đã từ lâu. Chị là bạn đồng niên lại cùng vào Hội Nhà văn một năm với tôi. Nhớ mãi cái ngày gặp mặt tân hội viên phía Nam tổ chức trang trọng tại khách sạn Sài Gòn vào đầu xuân năm 1997. Nhà thơ Nguyễn Duy thay mặt Ban tổ chức xướng danh sách lên, lúc đầu gọi chúng tôi là “ông”, “bà”, sau thấy “nghiêm” quá, cũng không mấy thích hợp, anh liền chuyển sang gọi thẳng là “nhà văn”, “nhà phê bình”. Nghe thấy vui vui, cử tọa tự nhiên cùng phá lên cười. Trong tiếng cười “cộng đồng” ngày ấy, tôi vẫn như còn nghe rõ giọng nhỏ nhẹ, trầm ấm của Hiền Phương. Lúc đầu, quả thực tôi không hề biết chị là ái nữ của nhà văn Hoàng Yến đâu. Vài ba năm sau, nhân một cuộc gặp mặt thân mật giữa những người viết với nhau tại Thành phố Hồ Chí Minh có mặt Hiền Phương, một bạn văn ngồi cạnh, thầm thì vào tai tôi với một giọng điệu vừa trang nghiêm vừa bí ẩn: “Con nhà văn Hoàng Yến đấy!”. Thế là tôi chủ động gặp chị, muốn biết thêm về thân phụ của chị, nhất là sự nghiệp văn chương không ít trầm luân của ông. Chị đề tặng tôi Bộ “Hoàng Yến – Tuyển tập” (*) gồm ba cuốn, ngót 1400 trang, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2007. Có được những tư liệu văn chương quý giá này, với tôi, có thể xem như một cái duyên nghề nghiệp hiếm hoi. Tôi quyết định dành thì giờ để đọc Bộ sách trong sự đợi chờ, hơn thế, trong sự háo hức… Sau đây là những thu hoạch nhỏ nhoi của tôi trước một văn nghiệp đồ sộ của Hoàng Yến với niềm tin hiển ngôn rằng: ĐÓ LÀ MỘT TÀI NĂNG VĂN CHƯƠNG KHÔNG DỄ LÃNG QUÊN!
1. Từ một quan niệm riêng về tiểu thuyết lịch sử…
Nhiều người biết nhà văn Hoàng Yến (1922 – 2012) tên thật Lê Hoàng Yến tham gia cách mạng rồi kháng chiến từ rất sớm. Ông từng vinh dự chiến đấu cùng Đại đoàn 304 qua nhiều chiến dịch lớn trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Đặc biệt, ông từng làm Thư ký tòa soạn Báo Khu 4 và là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Tuy nhiên, ít người biết trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông đã học hết Thành chung, có thời gian dạy học tại trường Ecpic Phan Thiết. Có thể nói, chính nhờ vốn liếng văn hóa, văn chương Pháp mà sáng tạo của ông sau này luôn đậm đà chất văn và lấp lánh quan niệm hiện đại. Dưới nhiều bút hiệu khác như Thạch Tiễn, Hoàng Lan, Hoàng Đức Anh, nhà văn Hoàng Yến đã để lại nhiều công trình nghệ thuật ấn tượng, bao gồm cả thơ, dịch thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, lẫn kịch bản sân khấu. Bộ sách Hoàng Yến Tuyển tập chứng tỏ sức lao động bền bỉ, giàu tính tự giác và tính sáng tạo của ông.
Nhìn lại cuộc đời lao động nghệ thuật không ít sóng gió qua nhiều giai đoạn của Hoàng Yến, nhiều người thường nhắc tới những huy chương vàng và huy chương bạc dành cho các tác phẩm sân khấu của ông. Cố nhiên, những đóng góp của Hoàng Yến trong lĩnh vực nghệ thuật này là lớn và quý, nhất là khi ngành nghệ thuật sân khấu ở nước ta vào thời ấy chưa có nhiều kinh nghiệm mà cũng chưa thu được những thành tựu đáng nể trọng như sau này. Nhưng có lẽ sự nghiệp lớn nhất, lấy của ông nhiều tâm huyết nhất lại chính là văn chương. Không ít người còn nhớ tới tập thơ trữ tình với nhiều cảm xúc khác lạ so với cảm hứng chung của thi ca cùng thời được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm vào 1957 – tập Tình người soi dặm đường. Riêng tôi thì nhớ nhiều hơn tới bài phê bình Tập thơ “Việt Bắc” có hiện thực không? của Hoàng Yến vốn khai mào cho một cuộc tranh luận văn chương cởi mở đầu tiên ngay khi hòa bình mới lập lại năm 1954 trên miền Bắc. Bài viết mới đầu đăng trên báo Văn nghệ số 65 ra ngày 11/03/1955. Trên cơ sở bài này, tác giả đã mở rộng và đào sâu thêm để in thành ba kỳ trên báo Nhân dân, số ra ngày 3, 4, 5 tháng 04 năm 1955, với tên Đọc thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu. Thời gian khá dài sau tôi mới được trực tiếp đọc những ấn phẩm mang tính sự kiện nói trên của ông. Và mãi đến khi ba tập Hoàng Yến Tuyển tập gần đây ra đời, tôi mới có dịp thưởng ngoạn những tuyệt phẩm khác của ông như các cuốn tiểu thuyết Câu thơ yên ngựa, Chân mây khép mở, Người học trò áo xanh… Theo tôi, chính những cuốn tiểu thuyết gắn với lịch sử này mới giúp các thế hệ bạn đọc hôm nay và mai sau nhận diện rồi đi tới lý giải con đường cũng như sức sáng tạo nghệ thuật riêng biệt của nhà văn.
Nghĩ tới các nhà văn viết về đề tài lịch sử trong đầu tôi thường hiện lên hai tên tuổi xuất hiện vào hai giai đoạn với dáng dấp và tầm vóc khác nhau. Đó Nguyễn Huy Tưởng và Hoàng Quốc Hải. Năm 2012 này, giới nhà văn và bạn đọc chúng ta kỷ niệm tròn 100 năm ngày sinh của Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960). Hội Nhà văn Việt Nam đã phối hợp với Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức cuộc hội thảo với chủ đề Nguyễn Huy Tưởng với đề tài lịch sử. Không thể quên được vở kịch Vũ Như Tô và truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Mục đích và tính chất của các tác phẩm này lộ lên khá rõ: phải văn chương hoá lịch sử. Không phải ngẫu nhiên mà nhà sử học Dương Trung Quốc có dịp tham dự đã lên tiếng khẳng định rằng Nguyễn Huy Tưởng cùng văn nghiệp của ông mang cốt cách một người viết sử. Các bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ của nhà văn Hoàng Quốc Hải có thể nói cũng đi theo một khuynh hướng xác định như vậy. Tôi muốn nhắc tới bộ tiểu thuyết “Tám triều vua Lý” (4 tập) và “Bão táp triều Trần” (6 tập) với chừng 6500 trang lấy mất 30 năm lao động nghệ thuật bền bỉ của nhà văn và thật sự trở thành một sự kiện văn chương lớn nhân cả nước nồng nhiệt kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội vào năm 2010. Khi trả lời phóng viên Báo Sài Gòn giải phóng ngày 04/10/2009, Hoàng Quốc Hải thẳng thắn mong mỏi: “Chỉ khi nào nền văn học văn chương hóa được lịch sử – PQT lưu ý, thì người dân của dân tộc đó mới thấu hiểu được nhiều hơn về lịch sử, mới thấm được nhiều hơn khí phách dân tộc…”. Định hướng và tính chất sáng tạo tiểu thuyết lịch sử của nhà văn lộ rõ trong câu nói ấy.
Chủ trương của nhà văn Hoàng Yến khi xử lý chất liệu lịch sử trong sáng tạo tiểu thuyết có trường hợp giống mà cũng có trường hợp khác các nhà văn nói trên. Giống là khi ông viết cuốn Câu thơ yên ngựa từ cuối năm 1979 đến đầu năm 1983. Tương tự như đường hướng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trước ông và nhà văn Hoàng Quốc Hải sau ông, Hoàng Yến muốn tập trung bút lực nhằm giải mã bản tính và sức mạnh của các nhận vật lịch sử mà ở đây là danh nhân Lý Thường Kiệt. Một lần, khi trả lời phỏng vấn báo chí, nhà văn Hoàng Quốc Hải có nhắc tới tác phẩm vừa nêu của Hoàng Yến, xem như là một trong những mạch nguồn ảnh hưởng trực tiếp tới mình khi dụng bút. Nhưng đến tiểu thuyết Chân mây khép mở hoàn thành năm 1991 thì lại có phần khác. Ở đây, Hoàng Yến chủ động xem con người và sự kiện lịch sử như bất cứ chất liệu sáng tạo nào khác trong tay nhà văn. Cái chính là ý đồ nghệ thuật. Mọi thứ đến từ xưa hay nay, ngoài hay trong đều chỉ hướng tới phục vụ ý tưởng cụ thể, xác định nảy sinh từ chính đời sống. Có lẽ đấy là chỗ làm nên sự khác biệt căn bản giữa ông với các nhà văn Việt Nam viết về đề tài lịch sử từ trước đến nay chăng? Tính hiện đại của tác phẩm nhờ thế được gia tăng hơn. Bởi hiện giờ, nhiều người thường có xu hướng phân biệt giữa mô phỏng với tái hiện – một ý niệm mang đậm tinh thần cách tân. Ví như nhà nghiên cứu J. Baudrillard. Theo ông, tái hiện là mô phỏng cái đã được mô phỏng, do đó, hầu như cắt đứt hoàn toàn với vật mẫu đầu tiên được xem như là “hiện thực”. J. Baudrillard gọi sản phẩm sáng tạo này là “ngoại thực”, ở đó người viết tạo ra một tác phẩm hư cấu hầu như thuần tuý. Tái hiện khác hư cấu bình thường ở chỗ nó “không chỉ trình bầy một vắng mặt như đang hiện diện, một tưởng tượng như đang có thực, mà còn là làm xói mòn bất cứ mâu thuẫn nào với cái có thực, hấp thu cái thực vào bên trong chính nó”. Vì tái hiện, theo J. Baudrillard, có điều kiện xóa đi sự khác biệt giữa sự thực và tưởng tượng.
Tinh thần tái hiện như thế được bộc lộ qua những đoạn trữ tình ngoại đề của tiểu thuyết Người học trò áo xanh được nhà văn Hoàng Yến hoàn thành vào năm 1995. Nhân vật xưng “tôi” tâm tình: “Nghe đến ‘cổ’ là tôi đã háo hức cả người…”. Anh ta còn bảo: “Không hiểu sao cái quá khứ bí ẩn của thế giới xa xưa cuốn hút tôi, quyến rũ tôi như khuôn mặt người tình đã mất”. Cái “cổ” xa xăm gây nên cảm hứng thật là đặc biệt. Nó giúp những người có ý thức nhận chân ra con đường và lẽ sống đích thực ở đời. Từ đó, không ai có thể dễ dàng lừa mị ta, giúp ta luôn tỉnh táo trong việc định hướng suy nghĩ và hành động trước bao sóng to gió cả của cuộc sống. Vậy là, câu chuyện và vấn đề trong những trường hợp như thế tưởng như “rất cũ” đã trở nên “rất mới”. Sự soi sáng của tư tưởng giữ vai trò quyết định. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Nếp rêu con cũng chói loà ánh sáng/ Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu”. Bởi vậy, lúc “nghe nói tới một hộp gỗ cũ mới thấy ở ngôi nhà từ đường”, rất tự nhiên, nhân vật trong truyện cảm thấy “tâm linh” bỗng trở nên “xao động” dầu chỉ nhận ra ở bên trong vẻn vẹn một cuốn sách cổ. Bất giác, anh “đưa tay với muôn vàn thận trọng” như “nâng hứng từng trang, từng trang”, cứ sợ trong phút chốc chính “nó có thể tan biến thành bụi”. Thái độ thận trọng, nghiêm cẩn trước những dấu vết của quá khứ ở đây thật đáng nể phục. Rồi, như không cưỡng lại nổi, anh lập tức chủ động giải mã, bằng sự cố gắng “hình dung nối kết những đoạn văn rời rạc, sắp xếp lại có mạch lạc lớp lang”, hơn thế “cố sống lại, cố nhìn thấy, cố lắng nghe bằng con mắt, lỗ tai của thời gian tôi chưa sinh thành”. Nhờ sự toàn tâm toàn ý mà “nguyện ước” của người xưa, tưởng là “một câu chuyện hoang đường” chìm sâu trong quá vãng đã trở nên rất “thực”, cái chân cái giả đan xen “như mây lồng mây, như khói lồng khói” đã được bóc tách và sáng tỏ dần.
Nhà văn Hoàng Yến
Tiếp cận với sự thật bị phủ bởi lớp bụi dầy của thời gian quả không mấy dễ dàng. Khó khăn đến từ nhiều phía. Trước hết là những văn bản cổ “trang đậm trang mờ, chữ còn chữ mất, những mạch đứt trong câu, những quãng trống trên giấy- những chỗ để tưởng tượng người xem bắc cầu vồng giải yếm – những tờ mủn ra thành bụi khi mó tay vào”. Sau đó là những cơn gió hữu hình, nhất là những cơn gió vô hình nổi lên lắm khi thật bất thường và vô cớ: “Và gió, gió. Những ngọn gió vô hình vần vũ trên tờ giấy, thổi bụi thành chữ, kết bụi thành nét, tụ bụi thành hình, bốc lên những đám cháy không lửa, dội lên những tiếng la thét không cấu âm, gợi lên những ký ức không tên”. Người đọc dễ cảm thông với tình cảnh đôi khi thật oái oăm của nhân vật: “Và mỗi lần mắt tôi lướt qua, những hàng chữ xém lửa thời gian ấy bỗng dãn nở ra trong một hóa thân trọn vẹn. Cảnh vật chung quanh ta tan biến nhường chỗ cho những hạt bụi giấy từ trang sách đổ về như đám tinh vân chuyển động, trong đó trồi lên những gương mặt vớt được từ dĩ vãng mù tăm, hiện lên những nhân vật, bước ra từ trong huyền thoại, như những hình thù quái dị lặng lẽ nối nhau đi trong những đêm sốt cuồng thời thơ ấu”. Tuy vậy, dường như không một trở ngại nào có thể làm nản chí nản lòng con người luôn da diết kiếm tìm sự thật, khiến anh có đủ can đảm để “lật cuốn quyển từng tờ từng tờ một mạch cho tới trang cuối”. Sau cùng, mọi nỗ lực kiên trì đã được đền đáp xứng đáng.
Tuy nhiên, theo một cách rất riêng… Bởi, như nhân vật trong truyện đã xác định: “Tôi không phải là nhà khảo cổ học”, mà chỉ là “kẻ hành hương khảo cổ”. Sự khác biệt nằm trong chủ đích hướng về quá khứ. Điều này càng đọc lại càng nhận thấy rõ hơn. Đoạn văn sau giúp ý định xuyên suốt được hé lộ dần dần: “Có phải vì khi tôi ngồi trong bóng tối của dĩ vãng nhìn ra thấy rõ hơn sự phức tạp đang diễn biến… Tôi chỉ biết đối với tôi hình như quá khứ hiện hữu trong mỗi hạt bụi cũ thức tỉnh tôi hơn cả những hạt vàng của tương lai mờ ảo…”. Một sự liên tưởng vô cùng sát hợp đến liền ngay sau đó: “Phải chăng đây là loại bia chôn nơi sa mạc, chai quăng trên biển cả, lá thắm thả trôi dòng, cất giấu một sự thật cấm kỵ, mang một thông điệp cho thế gian, gửi gắm một lời trối trăng với hậu thế, nhắn nhủ một nỗi niềm…”. Cái quyết định nằm ở thông điệp muốn nhắn gửi. Mọi cái khác chỉ là những phương tiện giúp thông điệp có điều kiện thấm sâu vào tim óc người tiếp nhận. Ta chợt thấu hiểu tâm thế lạ kỳ của người gửi thông điệp: “Giống như chất rượu mạnh ngấm vào cơ thể trước lúc hơi men bốc lên đầu, những năm tháng, những sự việc, những mẩu đời xa xưa trên trang sách cổ thấm vào khắp giác quan tôi, xuyên qua cơ thể tôi trước khi đến với tâm hồn vào một thời gian xa lạ với thời gian của con người, một thời gian nhìn thấu vào bên trong thực tại, một thời gian đậm đặc tâm linh không mang bản chất duy lý”. Những dòng suy tưởng cuồn cuộn và sống động. Sức mạnh, sức sống của sản phẩm sáng tạo từ chất liệu lịch sử phải chăng nằm ở chỗ đó!
Trở lại với tiểu thuyết Chân mây khép mở. Thông điệp chính nhà văn muốn trao gửi tới con người của mọi xứ sở và mọi thời đại nằm ở đâu? Ở chính nhân vật trung tâm của tác phẩm là Trần Kồ. Lần đầu tiên ông xuất hiện là ở “đệ nhất tửu lâu” trong kinh thành Thăng Long. Lão Tô – người chủ tửu lâu hỏi việc đón ông đã chu tất chưa thì được thưa lại rằng: “Ông ấy nhắn tin về, khắc đi khắc đến chẳng cần ai đưa đón”. Thật độc lập và chủ động trong mọi việc! Một ý nghĩ chợt đến ngay trong đầu lão Tô: “Chà, đúng là cái giọng kinh bạc”. Vẻ tự tin phớt đời ấy của “ông nho sỹ ngông cuồng nổi tiếng đất đế đô” được tác giả chủ ý tô đậm dần dà theo cốt truyện. Chẳng hạn, với ký ức của viên Tuần sát Trại Sành thì ông là “một nho sỹ nức tiếng cầm kỳ thi họa từ lúc 15 tuổi, nổi danh về tính ngạo ngược nhất kinh kỳ”. Đây là cảnh Trần Kồ vẽ liễu: “Năm đầu ngón tay của Trần Kồ đã nhúng vào nghiên mực đặt ở trên bàn, tay kia giữ thẳng vạt áo trắng, nguyệch ngoạc mấy nét vờn. Và trước mắt người hiện lên… một gốc cây liễu rạp mình trước cơn gió dữ. Như có cái gì hơn thế nữa, một thân phận đàn bà trước ngọn gió số phận phũ phàng…”. Từ cách vẽ đến thần thái của bức vẽ đều tỏ rõ không chỉ cái tài tình mà trước nhất là cái tính khí cương cường của người vẽ. Tiếp theo là việc dùng “ngọn bút lông” để “đổi mới toàn bộ hoa văn họa tiết kệch cỡm của ngành gốm thô sơ” rất là thần tình: “Bảy mươi bộ bát sứ Bồ Bát đồ cống cho nước Tống, chàng chỉ phóng bút trong mươi hôm” nhưng vẫn nhận được “tiếng khen của triều đình”. Rồi tác giả như nương theo cảm nhận của công tử Khánh để thể hiện tính cách có một không hai của nhân vật: “Hồn ngươi say mê đi theo nét bút của chàng, lượn trên lưng rồng, bay trên đuôi phượng, vờn trên mây sóng, chấm phá đậm nhạt trên hoa lá bốn mùa. Ngươi cảm nhận được sự khám phá của chàng trong cái thần của vạn vật, phần sâu sắc nhất của thiên nhiên qua bốn mùa tuần hoàn xoáy ốc xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn. Nhưng trong cái hữu hình của nét họa, cái vô hình vẫn ẩn tàng đâu đó”. Cuối cùng viên công tử vỡ ra rằng “chất thơ trong đường nét đã đánh thức cái trường cửu của sinh hóa còn ngủ sâu trong tầng tầng lớp bụi của thời gian”. Chính sự hiểu biết ấy đã giúp công tử Khánh nhích lại gần chàng, và từ đó hai người trở thành đôi bạn tri kỷ.
Đặc biệt, hầu như trong suốt cuộc đời mình, mọi việc làm và ý nghĩ của Trần Kồ luôn thấm nhuần tư tưởng thân dân. Ông thường day dứt: “Dân nghèo như con giun xéo lắm cũng quằn. Mỗi lần quằn dậy lên một đợt sóng. Triều đình chỉ lo mỗi việc dẹp, diệt. Diệt sao hết được ngoại duyên”. Căn nguyên của quan niệm cao cả ấy nằm ở chỗ ông có ý thức “làm ló đoá hoa tâm trong người lâu nay còn lấp dưới bùn”. Ông bảo: “Tôi là người tơi nón ngũ hồ, lấy chân trời làm nơi nương, lấy góc bể làm chỗ tựa. Trên đường đi bóng cây sẽ là nhà, đoá hoa nào đó sẽ là khách…”. Ông là người của tam giáo. Trong sự hài hoà giữa những khuynh hướng tư tưởng khác nhau, đến độ biến chúng “thành một dòng nước hát ca” quyện hoà trong ông. Nhà văn đưa ra lời bình luận thấu đáo: “Chàng lấy ở đạo Khổng cái gốc dân, ở đạo Lão cái huyền trời đất, ở đạo Phật cái tâm tỉnh thức. Và tất cả tạo cho chàng một phẩm-cách-người tuyệt diệu có một không hai”. Xa và cao hơn: “Trong người chàng không có chút ngả nghiêng, hài hòa linh hoạt như ngọc lăn trên bàn đá”. Do vậy, Trần Kồ có thể cảm nhận được biết bao lẽ phải thường ẩn khuất giữa dòng đời đục trong cuộn trôi hối hả. Ví như, dầu không thể “biết được những chuyện trong mai hậu” nhưng ông đã “nghiệm thấy rằng hễ sức mạnh đồng tiền càng tăng thì sức mạnh tinh thần và phẩm cách con người càng sa sút”. Nói khác đi “người nằm trên tiền nhưng rồi tiền lại nằm lên người”. Chân lý và lẽ phải như những giọt phù sa lắng lại trong tâm tưởng của những người giàu trải nghiệm mà cũng giàu thiện chí như ông.
Từ đó, Trần Kồ có thể dễ dàng nhận chân ra bao lẽ đúng sai, thật hư, xấu tốt ở đời. Cái gốc nằm ở trí tuệ và cảm nhận của người dân. Một lần Trần Kồ hỏi: “Thời buổi đảo điên này, biết lấy gì mà phân biệt được tốt với xấu?”. Lão Tô đáp ngay: “Lấy mũi mà ngửi. Cái tốt thơm lừng còn cái xấu buồn nôn lộn mửa”. Như việc quan Phụng ngự Đỗ Quảng dâng vua một con ngựa cái hoa đào. Nhiều người đồn đoán biết bao điềm lành. Riêng Trần Kồ tức tối nói: “Dân đang chết đói như ngả rạ làm gì có điềm lành… Chỉ được điềm nịnh”. Sự thật ở chỗ: “Đình thần bịa chuyện hót mong vinh thân. Còn vua thích nghe hót để quên chuyện an dân”. Thực chất bên trong lập tức bị phanh phui trong cái nhìn của con mắt sáng. Mắt sáng nhờ cái tâm sáng. Trung ngôn vốn nghịch nhĩ. Chuyện đến tai vua quan, đám sỹ tử trong chùa cùng ông bị bắt. Vụ án được xử kín hay đúng hơn là gần như không xử. Nó bị chôn sống trong im lặng như biết bao sự ngang trái khác ở đời. Nhưng lòng dân Thăng Long lại xôn xao. Nên khi “đám sỹ loạn tuy dập tắt” mà “không khí kinh sư vẫn hừng hực thuốc nổ”. Mọi chuyện có nguy cơ trầm trọng hơn. May cho Trần Kồ là nhờ sự can thiệp của những bậc thần thế trong triều nổi bật là công tử Khánh do hâm mộ tài năng của ông, vì vậy “tội nặng” được ân giảm. Đáng lẽ ông bị đày về làm hoành nô Cao Điền thì lại được chuyển sang làm quan Trung khách, cũng một loại nô nhưng làm việc nhẹ hơn nhiều ở cửa công. Trần Kồ vốn chẳng lạ gì cái thói đời đen bạc ấy. Chúng là dấu hiệu của thời suy loạn. Chẳng phải có lần nhân bàn về những chuyện rối ren của triều đình, Trần Kồ đã cười giễu: “Cái này phải chửi bố thằng Cao Biền. Hắn qua đây yểm tiệt mạch rồng mạch cọp, chỉ để lại mạch rắn mạch giun. Bây giờ mới sinh ra bọn quần thần ươn hèn như vậy”. Tuy lão Tô đại diện cho thứ minh triết ngàn đời của nhân dân lại nghĩ khác: “Không đúng đâu. Thiền sư La Quý An đã phá sạch mọi trù yểm của Cao Biền, để lại cho hậu thế cả một sấm trên cây gạo thiêng trồng trước chùa. Nhờ vậy vua Lý Thái Tổ mới ra đời”. Những lời luận bàn có sức soi rọi đến muôn đời.
Đọc xong cuốn tiểu thuyết, ta có dịp thấm thía bao điều lớn nhỏ. Trong đời và cả trong văn. Người viết như thoát ra khỏi những ràng buộc vô hình của chất liệu lịch sử bằng một ngòi bút tự chủ, tự quyết đáng nể phục. Với tiểu thuyết gia Hoàng Yến, ý đồ nghệ thuật là tối cao, sự hư cấu là nguyên tắc bất di bất dịch. Chúng hoàn toàn chi phối sự sáng tạo của nhà văn. Suốt cả quá trình và trong mọi thao tác. Chất liệu nóng hổi của thời hiện đại hay trầm tích nơi lịch sử xa xăm với ông đều thế cả. Đó phải chăng là một phương diện khác của tài năng làm nên tên tuổi Hoàng Yến. Chúng ta chắc sẽ còn tiếp tục kinh ngạc trước những khám phá mới mẻ về ông…
2. Đến cái chết bay bổng của nữ nhân vật Ngoạn Thiềm…
Người ta không thể chọn sự sinh. Bởi rất dễ hiểu rằng một người sinh ra khi nào và ở đâu bao giờ cũng là một lẽ nhiệm mầu đầy bí ẩn. Có lẽ chỉ có Tạo hoá mới biết rõ mà thôi! Riêng sự chết thì không hẳn thế. Nếu không có gì thật bất thường, ta có thể ít nhiều dự đoán trước cách ra đi của một con người. Ý nghĩa nhân sinh lạ kỳ của sự chết nằm ở chỗ đó chăng! Nói chung nhất thì cách sống sẽ quyết định cách chết. Đó là lý do chính lý giải mối quan tâm đặc biệt của các nhà văn tới sự rời bỏ cuộc sống của những đứa con tinh thần mà họ đã dứt ruột sinh hạ trong một tâm thế sáng tạo vô cùng đặc thù.
Đọc tiểu thuyết Chân mây khép mở của nhà văn Hoàng Yến, tôi để tâm tới sự ra đi của ba nhân vật. Trước tiên là Lý Huệ Tôn. Nhà vua chờ đợi cái chết ép uổng khi đã tắm gội sạch sẽ, thay quần áo tươm tất, thơm tho. Tác giả không tả, cũng không kể, chỉ đưa ra những suy tư: “Ai cũng ham kéo dài ngày sống. Và khi cái chết đến ai cũng cho rằng nó đến quá sớm hoặc đến chưa đúng lúc. Vì vậy ai cũng sợ chết. Chỉ cần biết… chết là số lớn của trời đất… Cái chết đến đúng lúc là một sự giải thoát. Nó đến lâng lâng như một sự hoàn tất. Lúc ấy ta biết yêu cái chết cũng như ta biết yêu cái sống” . Cái chết này gợi nhiều dư vị đắng chát về số phận bi thảm của một kiếp người. Sau đó là sự ra đi của Trần Tự Khánh – người mang hoài bão xã hội tốt đẹp của nhà văn về mẫu chính khách lý tưởng có thể có trong quá khứ và cả trong hiện tại: “Ông nhắm mắt, trao ánh mắt và chút hơi ấm tàn cho mặt trời, thở hắt ra trả hơi thở cuối cùng cho bầu thinh không và giữ lại cái xác lạnh cho đất. Trong cái chết, nét mặt ông tìm được vẻ thanh thản đến hồn nhiên, sự thanh thản mà ông không tìm thấy trong cuộc đời”. Cái chết của ông rõ ràng gợi nhiều ý tưởng thanh cao. Cuối cùng, và đặc biệt là cái chết của nàng Ngoạn Thiềm. Hãy nhớ lại lời trăn trối của người tình trong mộng của Trần Kồ: “Em ra đi trước chàng và được gặp chàng trước lúc ra đi. Ôi! Cái chết ngọt ngào… Giọng nàng bây giờ như hơi sương nhạt lơ lửng giữa trời cao… Em xuống dưới ấy lo chuẩn bị đàng hoàng để chờ chàng. Dưới ấy không còn gì có thể chia cắt được chúng mình… tuổi tác… chức phận… thứ bậc… cả miệng lưỡi thị phi của trần thế”. Cái chết này thật sự gợi những suy tư nhiều phần lãng mạn. Như hư mà cũng như thật. Nó có sức thôi thúc ta hướng tới những vẻ đẹp toàn bích. Không hẳn trong đời thực mà nhiều hơn trong tâm tưởng. Nhưng sao nó cứ ám ảnh ta hoài?
Muốn hiểu nàng không thể không hiểu nhân vật Trần Kồ vốn được nhà văn tạo dựng với nhiều dụng công nhằm gửi gắm biết bao tâm sự. Thường là những tâm sự rất khó nói trực tiếp bằng lời. Cần nói bằng văn chương thôi! Mà phải là thứ văn chương ám gợi: rất nhiều ý nghĩa trong từng chi tiết cũng như trong mỗi lời kể. Xét riêng trong tình yêu, Trần Kồ có ba mối tình đậm nhạt khác nhau. Với Đào Nga, Ả Kắm và Ngoạn Thiềm. Họ có những số phận không giống nhau: Đào Nga hiện sống yên vui với chồng con; Ả Kắm thì đã nằm yên dưới ba tấc đất; Còn Ngoạn Thiềm thì không thôi trăn trở dưới mồ. Nhất là sự khác biệt trong cách chết: Đào Nga chắc sẽ chết già; Ả Kắm chết trong chờ đợi; Còn Ngoạn Thiềm – nhân vật ấn tượng hơn cả thì “chết trong ngọt ngào”. Mối tình giữa Trần Kồ và Ngoạn Thiềm được phủ bởi một sắc màu lãng mạn hơn cả, đến mức nếu có tồn tại thì phần nhiều chỉ có thể tồn tại trong sách vở mà thôi! Cho dầu chính nhà văn Hoàng Yến đã có lúc xem mối tình giữa Trần Kồ với Đào Nga “là một kỳ tình trong lệ sử” bởi “người ta có thể giữ được tình đẹp đời đời” bằng cách “xa nhau mãi mãi”.
Ngoạn Thiềm vốn là cô học trò yêu của Trần Kồ. Chuyện là thế này, khi còn chế ngự vùng biển, Trần Tự Khánh đã dự tính đến tương lai, nên đã buộc tất cả con em trong dòng tộc mình đều phải học hành. Cứ hai tháng một kỳ, bọn học trò họ Trần trong đó có Ngoạn Thiềm lại kéo đến Ấp Hải nghe Trần Kồ bình văn. Ông bắt đầu để ý, rồi quan tâm tới cô học trò duyên dáng này. Khó quên nhất với Trần Kồ là khi ông Trần Lý mất, dầu chỉ là con nuôi, nhưng nàng lại tỏ ra vô cùng đau xót vì tiếc thương. Nên nhớ, khi đó nàng chỉ là một cô bé chưa quá mười tuổi, nhưng đã ngất xỉu do đau buồn. “Qua làn khói vàng mã đốt bay mù mịt, dưới vành khăn tang trắng lộp, chàng trông rõ đôi mắt nó nhắm nghiền, dòng nước mắt bên khoé vẫn chảy dài xuống mang tai”. Trần Kồ bế con bé lên, và cảm thấy rất rõ là “dường như thân hình còm nhom của nó quá bé nhỏ không kham nổi niềm đau quá lớn”. Vậy mà chỉ vài năm sau, cô bé bỗng lớn vổng lên và thật sự trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, khiến ông hết sức ngỡ ngàng: “Cái đập vào mắt trước tiên là sự trong trắng trinh nguyên như toát ra từ đường nét thanh tú trên người nàng. Làn tóc đen như bóng đêm ôm một khuôn trăng. Đôi mắt ướt buồn sườn sượt được cảm nhận như một nỗi đau của linh giác”. Bảo cô đẹp thì đúng rồi, nhưng là một vẻ đẹp trắng trong, tinh khiết đến siêu việt. Sức quyến rũ của nàng toát lên từ tâm hồn hơn là từ thân xác. Ông để ý tới thói quen sau của nàng: mỗi khi hái trầu đằng sau nhà bao giờ cô bé cũng trò chuyện thầm thì với cây trầu những mong an ủi nó vì “sợ làm đau” thân trầu. Lạ nhất là trong cảm nhận của nàng, trầu không khô héo mà đỡ đau thật, nên vẫn tươi tốt, trong khi “kẻ khác động tay vào là hôm sau nó xàu lá” ngay. Lạ hơn nữa là “giàn trầu bên kia xuống màu” thì giàn trầu bên này của nàng “cũng xuống màu theo”. Theo giải thích của chàng thì “mọi vật đều tương quan”. Nên: “Dường như những ý nghĩ tốt lành của con người truyền ra một luồng khí thiện khiến ngoại cảnh chung quanh hớn hở tươi vui. Ngược lại phải chăng mọi ý nghĩ độc ác làm ngột ngạt ô trọc bầu khí sống của thế gian này. Và đến cả sự thịnh suy của thời thế phải chăng cũng do những luồng khí thiện ác này tác động”.
Với tư chất như vậy, nàng dễ dàng tìm đến với thi ca. Chẳng phải người đời thường bảo thơ là tiếng nói giàu cảm xúc, là tiếng lòng da diết của con người là gì! Nhưng đột nhiên nàng quyết định không làm thơ nữa. Vì sao vậy? Trả lời nỗi băn khoăn của Trần Kồ, nàng bảo: “Dạ… cháu nghĩ… mình làm thơ dở, sợ làm đau thơ”. Cứ như trong huyền thoại vậy. Nếu trong cuộc đời mà có thế thì cũng thật là hiếm hoi. Nhưng nếu hiểu được bản tính dịu dàng giàu cảm thông với muôn vật muôn loài của nàng thì ta có thể cảm thông được phần nào. Chẳng phải, với nàng, “thơ cũng có linh hồn” đó sao! Nên không lạ, trong mắt của chàng “bước chân cô gái nhẹ tênh như đi trong cõi không”, còn “con đường nhỏ bên bờ ao bỗng biến thành dải lụa bạch mà chân nàng không hề làm nhàu nát”. Những bước đi khoan thai nhưng vô cùng cẩn trọng. Nàng “như sợ dẫm phải một sinh vật nào trên đất”. Đúng hơn là nàng “sợ làm đau đất”. Viết đến đây, như không kìm nổi lòng mình, tác giả chợt thốt lên: “Ôi! Một sinh vật chỉ với vũ khí duy nhất là tâm hồn sợ làm đau người đau vật làm sao bước qua khỏi đoạn đường thời buổi tao loạn hiện nay, đầy giặc cướp, đầy chém giết, đầy bạo lực phũ phàng”. Nỗi lo ngại có thực này, suy tới cùng, nào của riêng ai?
Khi con đường hoạn lộ mở rộng ra phía trước với dòng họ Trần thì quận chúa Ngoạn Thiềm lại nảy ra ý định bỏ về quê với ý muốn làm ni cô. Để thoát tục ư? Không hẳn: “Dạ thưa, người sinh ra vốn đã tục. Cõi đời là cõi tục. Chỉ có chết mới thoát tục”. Trong khi nàng chưa hề muốn chết. Hay đi tìm sự “vĩnh cửu”? Cũng không hẳn: “Vĩnh cửu là cái có trước” khi con người sinh, và “cũng lại có sau” khi con người chết. Trong khi với nàng ngày ấy vẫn chưa đến. Trần Kồ sững sờ vì chưa thật hiểu sự “kén chọn” của nàng: “Thơ… một tâm hồn thơ… cháu đã lấy thơ làm chồng”. Quyết định gắn bó số mệnh mình với văn chương ư? Người đời khó hiểu là phải. Không loại trừ cả Trần Kồ khi đó. Chỉ khi nàng uống thuộc độc vì phẫn chí, chàng mới dần hiểu ra mọi sự. Nàng nói trong tuyệt vọng: “Thầy không hiểu được là từ lâu em xa lánh bụi đời nhẫn nhục mặc chiếc áo sương phụ để chờ… thầy”. Đúng là nàng đã yêu chàng – một mối tình câm lặng, có lẽ “chỉ có các vì sao trên dòng Ngân kia biết”. Khi đưa thi thể nàng trở về Ấp Hải với bao kỷ niệm thân thuộc, thì đột nhiên: “Có cái gì đã khuấy đảo sâu xa trong người chàng. Một tiếng động khác thường, một ý thức đang ngủ yên sực tỉnh, một cánh cửa hé ra, một tấm màn vén lên, một chân mây chợt mở”. Chàng kịp ngộ ra: “Đúng là chàng yêu Ngoạn Thiềm”. Nhưng cho tới lúc ấy người tình nhân tội nghiệp này vẫn không sao lý giải nổi. Ngay cả cái điều căn cốt nhất: tình yêu này thuộc về “tâm tư hay xác thịt”? Rồi chàng quả quyết: nó thuộc “về linh hồn”. Đúng vậy! Chàng đâu yêu một khuôn mặt, một dáng hình, một giọng nói cụ thể. Chàng yêu một cái gì “ở sau mọi thứ ấy”, như “một ảo ảnh đuổi bắt đời đời từ kiếp này qua kiếp khác”. Đúng hơn nữa là chàng yêu “cái bí ẩn của tình yêu” nghĩa là yêu “chính cái bí ẩn của linh hồn mình”. Bởi vậy, không có gì là khó hiểu nếu “chính nàng trong tình yêu dám dấn đến những chân mây mà người đời tới đó sẽ mất thăng bằng trượt ngã, còn nàng thì bay bổng tiến tới những biên giới không ngờ để chàng nối bước theo chân”. Chợt nhớ tới những giọt nước mắt chia ly của đôi lứa. “Dòng lệ rơi vì tình như mưa rơi không cần ai thông dịch” – Hoàng Yến đã viết như vậy.
Thực tế đã xác minh điều nhà văn dự cảm. Sau vụ Cửu Liên, mọi người trong gia tộc được hưởng nhiều lợi quyền, danh vọng. Riêng Ngoạn Thiềm khi thành quận chúa lại nghĩ tới việc bỏ về quê muốn làm ni cô thoát tục để truy tìm “cái vĩnh viễn”. Chớ quên tới việc nàng đã trân trọng ra sao khi dâng những vần thơ “vụng dại” của mình cho Trần Kồ. Trước sự giãi bày của Ngoạn Thiềm – “món nợ của em chính là món nợ với văn thơ”, Trần Kồ đi tới một phán quyết nghiêm khắc với mình: “Mi đã cảm thấy… đã làm những việc phù phiếm tội lỗi so với cái việc mi cần phải hoàn thành ngay trong đời”. Bởi lẽ: “Mỗi người có một chân mây, mi đã tự khép chân mây của mình”. Lúc ấy, ông còn nhắc tới “Toà án sám hối” – một thứ toà án cao nhất đồng thời công minh nhất trong quan niệm của mình. Rất kịp thời, câu nói của người xưa vang lên: “Tri quá cận hồ dũng” (Biết lỗi là đã gần cái dũng). Thế là ông đi tới sự dứt khoát cho một cuộc chọn lựa. Khi đó “có cái gì mát lạnh làm chàng tỉnh lại”. Nhìn ra xa: “Hoàng hôn đang thay nhanh màu áo”. Ngẩng đầu lên: “Chợt thấy vầng trăng tái nhợt trên nền trời”. Chính nàng ở nơi cao vợi xa xăm kia để chờ chàng. “Không sao đâu, chỉ chốc nữa thôi, chàng sẽ được gặp lại màu trăng bạc của một đêm trăng thượng huyền”.
Một quyết định hoàn toàn xa lạ với mong muốn của bao người tưởng là thân thiết bao quanh chàng. Đây, lời nhắc nhở đầy ân tình trước khi rời dinh thự nhà mình của bà Dung, giờ đã là phu nhân của Thái sư quyền uy Trần Thủ Độ: “Anh Kồ thích rượu ngon và bạn hiền. Nay anh Khánh không còn nữa. Ông phải thay anh Khánh mà tiếp đãi anh ấy”. Bà cũng không quên dò hỏi: “Thế nào, ông đã nghĩ nên phong chức quan gì cho anh ấy chưa?”. Trong đầu Thái sư đã có một loạt chức tước quan trọng như Tham tri chính sự, Đại phu Trung thư, hoặc Quốc viện sử… dành cho Trần Kồ. Tuy nhiên, đúng như Trần Thủ Độ nghĩ: “Cả bà và tôi không ai muốn được cả. Còn tuỳ anh ấy có muốn không”. Thực tế đã diễn ra đúng như phán đoán của Trần Thủ Độ. Lúc bước chân qua khỏi cổng phủ Thái sư, tâm trạng Trần Kồ cảm thấy “lâng lâng”, như vừa “bước qua mọi ràng buộc” của tục luỵ. Đó là “một cảm giác thoắt lên mây nhẹ tênh tênh giống như khoảnh khắc ý thơ của chàng đột phát thoát khỏi lồng giam từ ngữ”. Hình như ai đó trên cao đang nhìn ông. “Chàng ngửa đầu nhìn lên, bắt gặp mặt trăng tròn nụ cười ánh bạc”. Một ý nghĩ ập đến tràn ngập trong ông: “Ngoạn Thiềm! Chính em đã thức tỉnh ta ra khỏi cơn mê trần thế. Chính em đã nhắc ta đừng quên thiên chức của mình. Chỉ có em mới giúp ta lay đổ nổi cây cổ thụ từ ngữ nghìn xưa rễ sâu bền gốc. Chỉ có em mới chắp cánh ta bay qua cái hữu hạn văn chương của cõi – bụi để đặt chân lên cõi – chưa – biết của thi ca”. Kết thúc tác phẩm ngập tràn ý nghĩ bay bổng: “Cái ngày xa lơ xa lắc ấy bao giờ đến nhỉ?”. Một câu hỏi buông ra: “Hay đó là giấc mơ của dã tràng xe cát”? Vì vẫn chưa hết những nỗi day dứt: “Nhưng đã trót sinh làm kiếp dã tràng thì hãy cam tâm xe cát biển đông”. Tưởng là vô lý và vô vọng. Không đâu! Cuộc sống có khi nào không tồn tại dưới dạng thức chưa hoàn kết đâu! Chính vì thế mới cần đến những con người quả cảm giàu trí lự, luôn tìm cách xông lên phá bỏ mọi rào cản hữu hình và vô hình nhằm hướng tới một mục đích duy nhất không gì so sánh nổi: Tự do.
Có thể nói, chính mối tình da diết với thơ, với Trần Kồ trong sự vươn dậy một cách vô vọng nhằm vượt thoát mọi ràng buộc đôi khi vô tình vô lý của xã hội đã giải thích cái chết có phần diệu vợi của Ngoạn Thiềm. Nhà văn thành công trong việc huyền thoại nhân vật đáng yêu này. Để cho nàng cái cơ may sống mãi trong tâm tưởng của bạn đọc hôm nay và mai hậu…
Phạm Quang Trung