Đối với dân tộc Việt Nam hình ảnh của Đại tướng Võ Tướng Giáp không chỉ có trong tâm trí của những cựu chiến binh, những nhà lão thành cách mạng hay những trí thức am tường lịch sử.
Mà hình ảnh của Đại tướng còn in sâu trong tâm trí của tất cả người dân Việt Nam. Sự ra đi của Đại tướng với tình cảm tiếc thương mà nhân dân dành cho ông là minh chứng rõ ràng về một vị tướng của nhân dân, từ nhân dân mà ra. Tình yêu bao la của nhân dân dành cho Đại tướng không có gì đong đếm được. Và bản thân tôi nhận ra cái tình yêu đất nước, tình yêu lãnh tụ, tình yêu dành những con người vĩ đại, kiệt xuất của nhân dân mới tuyệt vời và mênh mông biết nhường nào. Khi biết tin Đại tướng ra đi, trong lòng tôi đã không giấu được nhiều cảm xúc. Tôi có cảm giác mình mất đi một tình thứ cảm nào đó: như mất đi một niềm tự hào, một niềm tin đã được đặt ở đó.
Có biết bao nhiêu sách, báo, tạp chí và các tài liệu viết về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cuộc đời của Đại tướng đã đi qua hơn một thế kỉ với những biến động lớn lao của tiến trình chính trị đất nước. Từ giai đoạn đấu tranh cách mạng đầy đau thương và máu lửa đến khi giành chính quyền về tay nhân dân rồi đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cũng như quá trình Đổi Mới và hội nhập thành công của Việt Nam. Những hoạt động cách mạng trong một khoảng thời gian dài của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích đẩy đủ và sâu sắc. Nhưng điều tôi băn khoăn và mong muốn đi tìm câu trả lời là “tại sao Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại được nhân dân yêu mến đến vậy và tại sao ông lại trở thành một biểu tượng bất tử ở trong lòng nhân dân?.
Tôi tìm về tuổi thơ của Đại tướng, tìm về quê hương thân yêu của Người. Những hình ảnh của cậu bé Võ Giáp cứ dội về trong tâm trí tôi. Một cậu bé chăm học, học rất giỏi và nghe lời cha mẹ. Cái làng An Xá ngày ấy nghèo xơ, nghèo xác, kiếm được cái ăn đã khó nói gì đến việc học và đi học. Gia đình cậu bé Giáp là gia đình bần nông, ruộng nương không có mà làm, phải đi thuê ruộng cấy cày và cuối vụ thì trả nợ bằng thóc. Biết bao cái khổ, bao cái khó khăn, vất vả và sống dưới tình cảnh nước lầm thân, nhân dân cơ cực như vậy, thử hỏi nếu không có một trái tim nóng bỏng, một tình cảm yêu thương quê hương đầy nhiệt huyết và sự giỏi giang thông minh thì liệu có chàng trai Võ Nguyên Giáp cắp cặp vào Huế học tập và đi tìm tri thức lý luận cách mạng để giúp dân, giúp nước hay không. Yếu tố quê hương và gia đình càng làm tôi nhận ra rằng: trong văn hóa chính trị ở Việt Nam một cá nhân tài ba, một con người kiệt xuất nào đó dù khi đương quyền hay khi tại vị nếu xuất thân từ làng xã và đi lên từ văn hóa cộng đồng thì cái độ gần dân và dân gần mới dễ nhận thấy làm sao. Chúng ta có thể nhận thấy điều này trong cách sống, cách ứng xử của Đại tướng với đồng bào, đồng chí của mình. Từ diện mạo ăn mặc đến cử chỉ, hành động (ánh mắt, nét mặt…) của Đại tướng, tôi chưa thấy một sợi dây vô hình ngăn cách Đại tướng với bất kỳ một người dân nào. Mà thay vào đó là sự hiền từ, ân cần và nụ cười thường trực đầy trìu mến của Đại tướng.
Tôi đầy xúc động bởi mối tình đâu tiên của của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một mối tình đẹp đẽ vì lý tưởng cách mạng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và bà Nguyễn Thị Quang Thái đã có những lần gặp gỡ vội vàng như trên chuyến tàu Vinh đi Huế hay trong cuộc họp chi bộ của các đồng chí cộng sản. Đại tướng và Bà Quang Thái đã để lại trong lòng nhau nhiều cảm mến. Rồi họ thành vợ chồng từ tình cảm đồng chí, tình cảm bạn bè trong sáng ấy. Do phải làm cách mạng cứu nước, cứu dân họ đã chia tay nhau và mãi mãi không bao giờ gặp lại. Dẫu biết rằng làm cách mạng là sẵn sàng hi sinh và chịu nhiều gian khổ nhưng có ai cầm được nước mắt khi hay tin người mình yêu thương nhất, người vợ mình yêu mến nhất bị địch bắt và bức cung cho đến chết. Một phút lặng người của Đại tướng khi hay tin dữ đó, ông lặng lẽ dời khỏi phòng trong một cuộc họp ở chiến khu Việt Bắc. Chính lối sống đầy lòng yêu thương và nặng tình, nặng nghĩa ấy đã làm lên một Võ Nguyên Giáp rất thực con người. Nỗi đau riêng tư này được Đại tướng tạm gác, giấu kín vào trong để theo Đảng, theo Bác Hồ thực hiện nhiệm vụ cách mạng cao cả vì dân, vì nước. Đối với người vợ sau này là bà Đặng Bích Hà, Đại tướng dành cho bà sự yêu thương và tình cảm quan tâm vô bờ bến, có lẽ do Đại tướng đã quá thấm nỗi đau mất người thân. Đại tướng trân trọng và bù đắp tất cả tình cảm của mình cho bà, cái điều mà vốn dĩ ông muốn làm mà đã không làm được. Cứ mỗi lần sinh nhật bà Bích Hà, ông đều mua tặng bà bó hoa tươi với mùi thơm nhẹ nhàng, thoang thoảng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc sống đời thường bình dị, gần gũi và sâu sắc là vậy. Điều này càng làm tôi mến mộ Đại tướng hơn. Ở vị tướng tài ba, xuất chúng kia vẫn luôn hiện hữu những hành động, cử chỉ chân thành, mộc mạc. Vì vậy, không khó để hiểu vì sao nhân dân ta yêu mến Đại tướng không chỉ vì chiến tích lẫm liệt ngoài trận chiến mà còn trong cách sống, cách làm người của ông. Những lúc đó Đại tướng đã trở về với cái gọi là “là máu thịt đời thường ai chẳng có” rất đỗi thân thương, rất đỗi bình thường của một con người.
Vào những năm 1930 – 1945 lý tưởng cách mạng của người thanh niên Võ Nguyên Giáp luôn được chắp cánh bởi niềm tin thắng lợi, bởi tầm ảnh hưởng lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người mà Đại tướng luôn luôn kính trọng, học tập và noi gương. Trong cuộc gặp gỡ lịch sử đầu tiên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Bác Hồ ở Trung Quốc (1940) cho ta thấy sự gặp gỡ giữa hai con người lớn về tầm vóc, kiệt xuất về tài năng chắc chắn sẽ làm thay đổi lịch sử Việt Nam và thực sự hai con người vĩ đại này đã thay đổi dòng chảy lịch sử của dân tộc ta thế kỉ XX đầy bi tráng.
Làm sao kể xiết những gian khổ, hiểm nguy của người làm cách mạng. Làm sao nói lên được những hi sinh, mất mát của cán bộ và nhân dân ta những ngày đầu khởi nghĩa. Núi rừng Việt Bắc trắc trở thử thách lòng người, sự chống phá của quân thù thì ngày càng ghê gớm. Đội quân “trứng nước” mà Đại tướng chỉ huy chỉ có 34 đồng chí với vũ khí thô sơ, ít ỏi. Trong đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân “Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” vui cùng vui, khổ cùng khổ. Người lính già Tô Đình Cắm thành viên cuối cùng trong đội quân 34 người ngày ấy bùi ngùi kể lại kỷ niệm giữa ông và Đại tướng “khi tôi tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thì tuổi còn rất trẻ, chỉ mới 23 tuổi. Ban đêm khi ngủ tôi thường rất phá, cựu quậy lung tung, nhiều lần tôi còn gác chân lên người anh Văn. Lắm lúc bị anh mắng: Cậu ngủ gác chân quá mình không ngủ được”…. Nói thế nhưng anh vẫn cho tôi ngủ chung” Tính cách Đại tướng là thế, luôn luôn gần gũi đồng chí, bao dung với đồng đội. Đó là một vị chỉ huy không bao giờ có khoảng cách và cứng nhắc với binh sĩ của mình. Điều này tạo ra cho họ sự thoải mái và sẵn sàng vâng lệnh mỗi khi ra trận. Một sức mạnh bằng uy tín, bằng tấm lòng và sự tin tưởng của binh sĩ dành cho ông.
Với tinh thần kiên trung và bền bỉ cách mạng của người mang tố chất làm Tướng. Võ Nguyên Giáp đã đi sâu vào các hoạt động của quần chúng, tuyên truyền lý tưởng, lý luận về cách mạng của Đảng và Bác Hồ. Vì vậy mà sau này các nhà nghiên cứu lịch sử gọi ông là “Nhà chính trị đi trước nhà Quân sự”. Đại tướng đã đi trên con đường binh nghiệp của mình bằng cái nền vững chãi là sự ủng hộ của nhân dân, bằng chính trị trong lòng dân. Đó là phải làm công tác giác ngộ, tuyên truyền trước khi làm cách mạng bạo lực vũ trang. Làm chính trị trước khi làm quân sự, chính trị đi trước quân sự là phương châm hành động cách mang trong suốt cuộc đời của Đại tướng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm Châu và làm nên tên tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì ai ai trong bất cứ chúng ta đều biết đến. Nhưng để đưa đên một quyết định hoãn binh với phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” bằng cách “đánh chắc, thắng chắc” là một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của Đại tướng. Điều này cho thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất thương bộ đội, rất lo cho bộ đội. Ông lo lắng về sự mất mát lớn nhất là mất con người. Chiến tranh, trận mạc đâu phải chuyện đơn giản, bình thường mà có thể nói sai thì sửa bởi “thua là hết vốn”. Một quyết định sai lầm của người đứng đầu có thể nướng hết đội quân. “Chiến tranh không phải là vấn đề thể hiện, không được phiêu lưu, mạo hiểm, không cho phép đánh đổi bằng bất cứ giá nào. Sinh mạng của con người là vô giá và không có gì có thể bù đắp được nối đau mất mát trong chiến tranh”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố khó khăn của chiến dịch và ông luôn mất ăn, mất ngủ. Trên trán vị Đại tướng luôn nóng ran, lúc nào cũng đắp một nắm ngải cứu để giảm bớt các cơn đau đầu. Có ra trận địa mới thấy quý sinh mạng con người, có cầm quân mới biết rõ tấm lòng của người làm tướng. Bằng tài trí của mình cộng với tình yêu thương đồng đội, Đại tướng đã chọn cách đánh phù hợp, vừa giành thắng lợi giòn dã, trọn vẹn, vừa hạn chế sự mất mát về mặt con người ở mức thấp nhất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ác liệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn nỗi lên như một con ngôi sao sáng với tư duy chiến lược dụng binh linh hoạt và thần tốc táo bạo. Trong khoảng thời gian đó, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta lên cao, quân đội chính quy ngày càng tinh nhuệ và đường lối chiến tranh nhân dân đã dẫn tới những thắng lợi liên tục của cách mạng miền nam Việt Nam. Các trận đánh Tết Mậu Thận (1968) năm nào, Điện Biên Phủ trên không (1972) và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) lịch sử là những trận đánh lớn. Nhưng cũng cần phải nói rằng: chiến thắng nào mà chẳng phải trả bằng sương máu của nhân dân. Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn đau đáu và suy nghĩ về những mất mát đó – Ông xót xa cho những người đã hi sinh trong cuộc đấu tranh vì Tổ quốc. Điều này cho thấy tấm lòng nhân ái, tính nhân văn sâu sắc trong con người Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Nhiều tướng lĩnh nói rằng “tính nhân văn” trong phong cách cầm quân của Võ Nguyên Giáp là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến ông được toàn dân quý mến. Vị Tướng Hoàng Minh Thảo đã từng nhận xét về Đại tướng “Tổng tư lệnh không bao giờ chấp nhận một chiến thắng phải trả bằng bất cứ giá nào về sương máu chiến sĩ do những quyết định tùy tiện và thiếu thận trọng gây ra… “Tư lệnh nhiều đêm mất ngủ hoặc nhiều lần chảy nước mắt khi nghe báo cáo số lượng cán bộ và chiến sĩ bị thương vong quá cao cho một trận đánh”.
Với Tướng Đồng Sĩ Nguyên – Tư lệnh bộ đội Trường Sơn thì có một kỷ niệm khó quên với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đó là trong một lần dẫn Đại tướng đi thăm cụm APT trên đường chiến lược Hồ Chí Minh. Khi về ông đã ghi lại dòng cảm xúc trong hồi ký của mình như sau: “Những giọt nước mắt dành cho những chiến sĩ vĩnh viễn nằm trên trọng điểm này của vị Tổng Tư lệnh giữa chiều Trường Sơn thật sự thấm đậm tình người, lắng sâu trong tâm khảm chúng tôi, không thể nào quên”
Còn đối với vị Tướng Trần Văn Trà thì Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là một Tổng Tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc giọt máu của mỗi chiến binh.
Đối với người chiến sĩ cách mạng kiên trung ấy niềm vui lớn nhất là non sông đất nước thu về một mối. Chiến tranh chỉ là chuyện bất đắc dĩ mà nhân dân Việt Nam phải tiến hành để cứu nước. Và khi hòa bình lập lại thì chúng ta luôn có cái nhìn thiện chí với kẻ thù. “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Tư tưởng nhân đạo và tính nhân văn ấy thuộc về văn hóa ứng xử của dân tộc Việt Nam đối với giặc ngoại xâm thua trận. Nó là một giá trị xuyên suốt trong các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt, dưới thời đại Hồ Chí Minh nó lại được rạng sáng, nổi bật bởi những con người điển hình. Đại tướng của chúng ta là một nhân vật như thế, ông ứng xử với kẻ thù bằng thái độ xây dựng, nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong cuộc trò chuyện của Đại tướng với con trai của cố Tổng thống Kennedy, Ngài John Kennedy đã hỏi Đại tướng“Tôi không hiểu vì sao trước đây tôi lại đến đánh Việt Nam và cũng không hiểu tại sao tôi lại được ngài đón tiếp như vậy”. Và Đại tướng trả lời: “Trước đây, lính Mỹ đến Việt Nam mang theo súng Thompson nên chúng tôi tiếp họ với tư cách những kẻ mang súng. Bây giờ, anh đến đây với tư cách khách du lịch và chúng tôi tiếp anh với truyền thống mến khách của người Việt Nam”. Và rồi, người đàn ông đó đã khóc.
Với vị tướng dày dạn chinh chiến như Đại tướng thì Người đã quá thấu hiểu sự mất mát của chiến tranh. Khi về già Đại tướng thường suy tư và trầm lặng. Tâm trạng của Đại tướng xúc động là khi ông nhắc đến Bác Hồ và những người đã khuất “mỗi khi đến nghĩa trang Mai Dịch thăm mộ người thân, ông thường đi dọc theo các hàng mộ. ông nói rằng thấy nhiều người quen quá, như đi dọc cả pho sử mà ông là người trong cuộc. Ông nói trong bâng khuâng “nhiều người tốt lắm, nhiều người đi xa rồi…” Ông kể rằng ông đã khóc khi biết những lớp học sinh đại học dời ghế nhà trường tiến thẳng ra mặt trận Quảng Trị những ngày ác liệt vào mùa hè 1972. ông luôn nhắc lại lời của Bác là không có trận thắng nào gọi là đẹp cả.
Tất cả những giá trị tốt đẹp và phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc thì mãi mãi tồn tại. Nó có thể tồn tại ở đâu đó và ẩn nấp ở các dạng khác nhau trong quan hệ giữa con người với con người. Giá trị của sự trân trọng, tôn kính đối với anh hùng dân tộc là một giá trị hết sức thiêng liêng. Sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho chúng ta thấy sức mạnh vô biên của dân tộc. Nó như đã dồn nén và ứ đọng từ lâu và khi đã bung ra thì bùng phát đến cao trào, tột đỉnh. Lòng yêu nước, yêu người anh hùng cách mạng của nhân dân mới đẹp đẽ và trong sáng biết bao. Thứ tình yêu thiêng liêng này bắt nguồn từ nhiều dòng chảy, trong đó “TÍNH NHÂN VĂN” trong cuộc đời cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp góp phần hướng tình cảm nhân dân vào dòng chảy chủ đạo ấy.
Tác giả: Cù Văn Trung