Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, Chí Linh. Từ nhỏ đã có tướng mạo vô cùng xấu xí nhưng tư chất thông minh, lại rất chăm chỉ học hành, có tài ứng đối mau lẹ.
Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (năm 1304), ông đi thi đỗ Trạng Nguyên. Nhà vua cho vời vào cung để ban áo mão cân đai, nhìn thấy Tân Trạng chỉ là một chàng trai có vóc người nhỏ thấp, tướng mạo xấu xí, vua Anh Tông có ý không muốn dùng.
Ồng bèn dâng bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú” (bài phú: Sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Vua xem xong bài phú, từng câu, từng chữ như khiến Người bừng tỉnh và thốt lên: “Mạc Trạng nguyên quả là bậc thiên tài, có tiết tháo”.
Quan Trạng rất được lòng dân bởi đức tính thanh liêm, về sau làm đến chức Tả Bộc Xạ (Thượng Thư). Ông còn được mệnh danh là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên do vừa là trạng nguyên của Đại Việt và cũng là trạng nguyên đặc phong của nhà Nguyên.
Tượng thờ Mạc Đỉnh Chi ở chùa Dâu (Kinh Bắc xưa)
.
Truyền kỳ Lưỡng Quốc Trạng Nguyên
Một lần phụng mệnh vua đi sứ sang Tàu, trong buổi yết kiết hoàng đế nhà Nguyên còn có sứ thần Triều Tiên. Vốn nghe danh trạng nguyên nước Việt, người xấu xí nhưng ứng đối như thần, vua Nguyên muốn nhân dịp này thử tài hai vị sứ giả.
Trong lúc đang phân vân thì có người vào triều dâng lên chiếc quạt rất đẹp, vua Nguyên liền bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Với sự nhanh trí kì lạ, ông đề:
“Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di Tề ngã phu.
Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù.”
Dịch nghĩa:
“Chảy vàng, tan đá, trời đất là lò lửa, thì lúc ấy quạt như Y Doãn, Chu Công, là những người tài giỏi”.
Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, lúc ấy quạt như Bá Di, Thúc Tề, là những ông già chết đói”.
Ôi! Dũng thì thành đạt, bỏ thì xếp xó. Chỉ có ta và người là như thế chăng?”
Bài của Mạc Đĩnh Chi làm xong trước, ý sắc sảo, văn lại hay thể hiện cái tài và cái tâm của người làm việc lớn. Triều thần nhà Nguyên nhìn nhau trầm trồ thán phục. Hoàng đế nhận thấy đây quả thật là bậc hiền tài bèn ngự bút phong làm “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”.
玉井蓮賦 – Ngọc tỉnh liên phú
客有:
隱几高齋,夏日正午。
臨碧水之清池,詠芙蓉之樂府。
忽有人焉:
野其服,黃其冠。
迥出塵之仙骨,凜辟穀之臞顏。
問之何來,曰從華山。
迺授之几,迺使之坐。
破東陵之瓜,薦瑤池之果,
載言之琅,載笑之瑳。
既而目客曰:
子非愛蓮之君子耶!
我有異種,藏之袖間。
非桃李之粗俗,非梅竹之孤寒。
非僧房之枸杞,非洛土之牡丹。
非陶令東籬之菊,非靈均九畹之蘭。
乃泰華山頭玉井之蓮。
客曰:
異哉!豈所謂藕如船兮花十丈,冷如霜兮甘比蜜者耶!
昔聞其名,今得其實。
道士欣然,乃袖中出。
客一見之,心中鬱鬱。
乃拂十樣之牋,泚五色之筆。
以而歌曰:
架水晶兮為宮,
鑿琉璃兮為戶。
碎玻璃兮為泥,
洒明珠兮為露,
香馥郁兮層霄,
帝聞風兮女慕。
桂子冷兮無香,
素娥紛兮女妒。
採瑤草兮芳州,
望美人兮湘浦。
蹇何為兮中流,
盍將返兮故宇。
豈護落兮無容,
嘆嬋娟兮多誤。
苟予柄之不阿,
果何傷兮風雨。
恐芳紅兮搖落,
美人來兮歲暮。
道士聞而嘆曰:
子何為哀且怨也!
讀不見鳳凰池上之紫薇,白玉堂前之紅藥!
敻地位之清高,藹聲名之昭灼。
彼皆見貴於聖明之朝,子獨何之乎騷人之國!
於是有感其言,起敬起慕。
哦誠齋亭上之詩,庚昌黎峰頭之句。
叫閶闔以披心,敬獻玉井蓮之賦。
Khách hữu:
Ẩn kỷ cao trai, hạ nhật chính ngọ.
Lâm bích thuỷ chi thanh trì, vịnh phù dung chi Nhạc phủ.
Hốt hữu nhân yên:
Dã kỳ phục, hoàng kỳ quan.
Huýnh xuất trần chi tiên cốt, lẫm tích cốc chi cù nhan.
Vấn chi hà lai, viết tòng Hoa San.
Nãi thụ chi kỷ, nãi sử chi toạ.
Phá Đông Lăng chi qua, trãi Dao Trì chi quả,
Tái ngôn chi lang, tái tiếu chi tha.
Ký nhi mục khách viết:
Tử phi ái liên chi quân tử gia!
Ngã hữu dị chủng, tàng chi tụ gian.
Phi đào lý chi thô tục, phi mai trúc chi cô hàn.
Phi tăng phòng chi cẩu kỷ, phi Lạc thổ chi mẫu đan.
Phi Đào lệnh đông ly chi cúc, phi Linh quân cửu uyển chi lan.
Nãi Thái Hoa san đầu ngọc tỉnh chi liên.
Khách viết:
Dị tai! Khởi sở vị ngẫu như thuyền hề hoa thập trượng, lãnh như sương hề cam tỷ mật giả gia!
Tích văn kỳ danh, kim đắc kỳ thực.
Đạo sĩ hân nhiên, nãi tụ trung xuất.
Khách nhất kiến chi, tâm trung uất uất.
Nãi phất thập dạng chi tiên, thử ngũ sắc chi bút.
Dĩ nhi ca viết:
Giá thuỷ tinh hề vi cung,
Tạc lưu ly hề vi hộ.
Toái pha ly hề vi nê,
Sái minh châu hề vi lộ,
Hương phức uất hề tằng tiêu,
Đế văn phong hề nữ mộ.
Quế tử lãnh hề vô hương,
Tố Nga phân hề nữ đố.
Thái dao thảo hề Phương châu,
Vọng mỹ nhân hề Tương phố.
Kiển hà vi hề trung lưu,
Hạp tương phản hề cố vũ.
Khởi hộ lạc hề vô dung,
Thán thiền quyên hề đa ngộ.
Cẩu dư bính chi bất a,
Quả hà thương hề phong vũ.
Khủng phương hồng hề dao lạc,
Mỹ nhân lai hề tuế mộ.
Đạo sĩ văn nhi thán viết:
Tử hà vi ai thả oán dã.
Độc bất kiến Phượng Hoàng trì thượng chi tử vi, Bạch Ngọc đường tiền chi hồng dược!
Quýnh địa vị chi thanh cao, ái thanh danh chi chiêu chước.
Bỉ giai kiến quý ư thánh minh chi triều, tử độc hà chi hồ tao nhân chi quốc!
Ư thị hữu cảm kỳ ngôn, khởi kính khởi mộ.
Nga Thành Trai đình thượng chi thi, canh Xương Lê phong đầu chi cú.
Khiếu xương hạp dĩ phi tâm, kính hiến “Ngọc tỉnh liên” chi phú.
Phú sen trong giếng (bản dịch của Phan Võ)
Khách có kẻ:
Nhà cao tựa ghế; trưa hạ nắng nồng.
Ao trong ngắm làn nước biếc; Nhạc phủ vịnh khúc phù dung.
Chợt có người:
Mặc áo quê; đội mũ vàng.
Tiên phong đạo cốt; khác xa trần gian.
Hỏi “Ở đâu lại”, rằng “Từ Hoa San”.
Bèn bắc ghế; bèn mời ngồi.
Dưa Đông Lăng đem cắt; quả Dao trì đem mời.
Bèn sang sảng nói, bèn ha hả cười.
Đoạn rồi, trông khách mà rằng:
Anh cũng là người quân tử ưa hoa sen đó chăng?
Ta có giống lạ trong ống áo này.
Chẳng phải như đào trần lý tục; chẳng phải như trúc cỗi mai gầy.
Câu kỷ phòng tăng khó sánh; mẫu đơn đất Lạc nào tầy.
Giậu Đào Lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân lan khó sánh thay!
Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái hoa đây.
Khách rằng:
Lạ thay! Có phải người xưa từng bảo: “Ngó như thuyền mà hoa mười trượng, lạnh như sương mà ngọt như mật” đó ư ?
Trước vẫn nghe tiếng, nay mới thấy thật.
Đạo sĩ lòng vui hớn hở, lấy trong ống áo trưng bày.
Khách vừa trông thấy; lòng ngậm ngùi thay.
Giấy mười thức xếp sẵn; bút năm sắc thấm ngay.
Làm bài ca rằng:
Thủy tinh gác để làm cung
Cửa ngoài lóng lánh bao vòng lưu li
Bùn thời tán bột pha lê,
Hạt trai làm móc dầm dề tưới cây,
Mùi hương thơm ngát tầng mây,
Ngọc hoàng nghe cũng rủ đầy tình thương.
Lạnh lùng hạt quế không hương,
Tố Nga lại nổi ghen tuông tơi bời.
Bãi sông hái cỏ dạo chơi,
Bến Tương luống những trông vời Tương phi,
Giữa dòng lơ lửng làm chi,
Nhà xưa sao chẳng về đi cho rồi.
Há rằng trống rỗng bất tài
Thuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay.
Nếu ta giữ mực thẳng ngay.
Mưa sa gió táp xem nay cũng thường
Sợ khi lạt thắm phai hương.
Mỹ nhân đến lúc muộn màng hết xuân.
Đạo sĩ nghe mà than rằng:
Sao anh lại ai oán như thế?
Anh không thấy: hoa tử vi trên ao Phượng hoàng, hoa hồng dược trước thềm Ngọc đường đó sao?
Địa vị cao cả; danh tiếng vẻ vang.
Triều minh thánh chúng ta đều được quý: cõi tao nhân anh đi mãi sao đang.
Khách bấy giờ:
Nghe lọt mấy lời; đem lòng kính một.
Ngâm thơ đình thượng của Thành Trai; họa câu phong đầu của Hàn Dũ.
Gõ cửa thiên môn, giãi tấc lòng, kính dâng bài “Ngọc tỉnh liên” phú.
Chú thích:
Bài phú này được lấy ý từ bài thơ Ngọc Tỉnh Liên Thi của Hàn Dũ và Ái Liên Thuyết của Chu Đôn Di.
1. Ngọc Tỉnh Liên Thi – Hàn Dũ 玉井蓮詩 < 韓愈 >
太華峰頭玉井蓮,
開花十丈藕如船。
冷比雪霜甘比蜜,
一片入口沈痾痊。
我欲求之不憚遠,
青壁無路難夤緣。
安得長梯上摘實,
下種七澤根株連。
PHIÊN ÂM
Thái Hoá phong đầu Ngọc Tỉnh Liên,
Khai hoa thập trượng ngẫu như thuyền.
Lãnh tỷ tuyết sương cam tỷ mật,
Nhứt phiến nhập khẩu trầm kha thuyên.
Ngã dục cầu chi bất đạn viễn,
Thanh bích vô lộ nan di duyên.
An đắc trường thê thướng trích thật,
Há chúng thất trạch căn chu liên.
DỊCH NGHĨA
Sen Ngọc Tỉnh trên đầu núi Hoá,
Ngó tợ thuyền mười trượng hoa cao .
Lạnh như tuyết sương ngọt như mật ,
Ngậm một miếng bịnh trầm cũng khỏi .
Ta mong cầu khỏi sợ quanh co,
Sườn dốc xanh một không lối trèo .
Sao được thang dài leo lên hái,
Xuống trồng gốc sen trong bảy chằm.
2. Ái Liên Thuyết – Chu Đôn Di 愛蓮說 <周敦頤>
水陸草木之花,可愛者甚蕃。
晉陶淵明獨愛菊;自李唐來,世人盛愛牡丹;予獨愛蓮之出淤泥而不染,濯清漣而不妖,中通外直,不蔓不枝,香遠益清,亭亭靜植,可遠觀而不可褻玩焉。予謂菊,花之隱逸者也;牡丹,花之富貴者也;蓮,花之君子者也。
噫!菊之愛,陶後鮮有聞;蓮之愛,同予者何人;牡丹之愛,宜乎眾矣。
PHIÊN ÂM
Thủy lục thảo mộc chi hoa, khả ái giả thậm phồn.
Tấn Đào Uyên Minh độc ái cúc; tự Lý Đường lai, thế nhơn thịnh ái mẫu đơn; dư độc ái liên chi xuất ứ nê nhi bất nhiễm, trạc thanh liên nhi bất yêu, trung thông ngoại trực, bất mạn bất chi, hương viễn ích thanh, đình đình tĩnh thực, khả viễn quán nhi bất khả tiết ngoạn yên.
Dư vị cúc, hoa chi ẩn dật giả dã; mẫu đơn, hoa chi phú quý giả dã; liên, hoa chi quân tử giả dã.
Y ! Cúc chi ái, Đào hậu tiên hữu văn; liên chi ái, đồng dư giả hà nhơn; mẫu đơn chi ái, nghi hồ chúng hĩ .
DỊCH NGHĨA
Bông của cây cỏ dưới nước trên bờ, nhiều loài dễ mến. Đào Uyên Minh đời Tấn riêng thích cúc; từ Lý Đường trở về sau , người đời rất thích mẫu đơn; riêng tôi, tôi thích hoa sen, ‘gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn’, trơ trọi trên nước lăn tăn mà không ẻo lả, bên trong thông suốt bên ngoài thẳng ngay, chẳng bò dưới đất chẳng phát nhánh cành, mùi thơm truyền xa càng tinh khiết, cắm yên đứng thẳng, có thể ngắm từ xa, nhìn không chán. Ta bảo cúc là hoa của kẻ ẩn dật; mẫu đơn là hoa của bực giàu sang; sen là hoa của quân tử vậy.
Ôi ! Yêu thích cúc, sau họ Đào vẫn còn nghe; có ai yêu thích sen cùng với ta nào; yêu thích mẫu đơn có nhiều kẻ thế ư.
Sưu tầm